TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 60/2022/HS-PT NGÀY 08/07/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng mở phiên tòa công khai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 44/2022/TLPT-HS ngày 18 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo Hà Đức Q, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2022/HS-ST ngày 15/4/2022 của Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng.
Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Hà Đức Q, tên gọi khác: Không, sinh ngày 20/4/1991 tại Quảng Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn Đ (nay là thôn N), xã N, huyện B, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Không. Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hà Y và bà Nguyễn Thị B; gia đình có 06 anh chị em, bị cáo là con thứ 3 trong gia đình;Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng tháng 3 năm 2018, do có mối quan hệ quen biết nên bà Nguyễn Thị Thanh Q cho bà Trần Thị V vay số tiền khoảng 975.000.000 đồng. Do bà V không trả nợ đúng hạn nên bà Q thường xuyên liên lạc đòi lại số tiền cho vay.
Khoảng tháng 8 năm 2019, bà V nhìn thấy tờ rơi có nội dung cho vay tài chính tư nhân nên gọi đến số điện thoại 0905912416 của Hà Đức Q in trên tờ rơi hỏi làm thủ tục vay tiền. Trong khi bà V và Q gặp nhau để làm hồ sơ vay thì bà Q gọi điện cho bà V đòi nợ. Do đó, bà V nhờ Q xác nhận là bà đang làm hồ sơ vay để lấy tiền trả nợ cho bà Q. Đồng thời, bà V cung cấp số điện thoại của Q để bà Q tự liên hệ xác minh về khoản vay của bà V.
Đến khoảng đầu tháng 9 năm 2020, Hà Đức Q nảy sinh ý định giả làm nhân viên ngân hàng để lừa lấy tiền của bà Nguyễn Thị Thanh Qnên dùng số điện thoại 0905912*** liên lạc qua Zalo với bà Q, Q tự nhận tên là Hoàng N - nhân viên Ngân hàng S thành phố Đà Nẵng, phòng giao dịch Đ, hiện đang làm hồ sơ cho bà Trần Thị V vay tiền tại ngân hàng. Qhứa hẹn sẽ giúp bà Q biết thời gian giải ngân hồ sơ vay của bà V để bà Qbiết đến lấy tiền nợ. Sau đó, Qlấy lí do làm thủ tục giải ngân nhanh hồ sơ vay của bà V để bà Q nhanh chóng lấy được tiền nợ, yêu cầu bà Q phải đưa trước tiền cho mình. Do tin tưởng Q sẽ thông báo thời gian bà V vay tiền và làm thủ tục giải ngân nhanh được nên trong tháng 9 năm 2020, bà Q đã 04 lần đưa tổng số tiền là 40.000.000 đồng cho Hà Đức Q, cụ thể như sau:
- Lần 01: Khoảng đầu tháng 9 năm 2020 (không nhớ rõ ngày), Q liên lạc qua Zalo, yêu cầu bà Q đưa số tiền 10.000.000 đồng để làm nhanh hồ sơ giải ngân tiền vay cho bà V thì bà Q đồng ý. Q hẹn bà Qđến khu vực ngã 3 C để giao nhận tiền. Sau đó, Qđiều khiển xe mô tô mượn của bạn (không nhớ nhân thân, lai lịch, không nhớ biển kiểm soát) đến điểm hẹn trên đường quốc lộ 1A (không nhớ rõ địa điểm cụ thể), nhận của bà Q số tiền 10.000.000 đồng, không viết giấy nhận tiền.
- Lần 2: Ngày 03/9/2020, Q liên lạc qua Zalo, yêu cầu bà Q đưa thêm số tiền 10.000.000 đồng để làm nhanh thủ tục hồ sơ giải ngân cho bà V, bà Q đồng ý và hẹn gặp Q tại khu vực đường C, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng để giao tiền. Sau đó, Q điều khiển xe mô tô mượn của bạn (không nhớ nhân thân, lai lịch, không nhớ biển kiểm soát) đến điểm hẹn, gặp bà Q và lấy số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Q ký vào giấy nhận tiền do bà Qsoạn sẵn với tên Hoàng N đã nhận tiền lần 1+2 là 20.000.000 đồng.
- Lần 3: Ngày 10/9/2020, Q liên lạc qua Zalo với bà Q nói cần tiền để làm thủ tục giải ngân nhanh hồ sơ vay cho bà V, yêu cầu bà Q đưa thêm 10.000.000 đồng, bà Q đồng ý và hẹn Q đến khu vực đường C, phường Q, quận S, thành phố Đà Nẵng để giao tiền. Sau đó, Q điều khiển xe mô tô mượn của bạn (không nhớ nhân thân, lai lịch, không nhớ biển kiểm soát) đến gặp bà Q và lấy số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Qký giấy nhận tiền cho bà Q với tên Hoàng N đã nhận tiền lần 1+2+3 là 30.000.000 đồng.
- Lần 4: Ngày 20/9/2020, Q tiếp tục liên lạc qua Zalo với bà Q yêu cầu đưa thêm 10.000.000 đồng để làm nhanh hồ sơ vay cho bà V thì bà Qđồng ý, hẹn đến khu vực cuối đường C giao tiền. Sau đó, Qmượn xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát: 77C1-16381 của anh H rồi điều khiển đến khu vực cuối đường C (không nhớ rõ địa điêm cụ thể) gặp bà Qlấy số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi đưa tiền, bà Q đề nghị nếu làm hồ sơ giải ngân được sớm cho bà V số tiền vay là 800.000.000 đồng thì bà Q sẽ cho Q thêm 40.000.000 đồng. Q đồng ý. Sau đó, Q viết vào giấy nhận tiền ghi ngày 03/9/2020 do bà Qsoạn sẵn với tên Hoàng N, thể hiện nội dung “tổng cộng nhận 40tr vào ngày 20/9/2020 còn lại 40tr sau khi nhận tiền xong”, hẹn ngày 23/9/2020 sẽ giải quyết xong việc. Sau khi đưa tiền cho Q, bà Q có quay video lại. Sau khi lấy tiền xong, Q vứt điện thoại, sim số 0905912*** để bà Q không liên lạc được. Toàn bộ tiền chiếm đoạt được từ bà Nguyễn Thị Thanh Q, Hà Đức Q đã tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 23/9/2020, bà Q không liên lạc được với Q nên gửi đơn đến cơ quan chức năng trình báo sự việc.
Tang vật tạm giữ:
- 01 giấy nhận tiền (bản chính);
- 01 đĩa CD chứa video ghi lại việc nhận tiền lần 4.
Theo kết luận giám định số 85/GĐ-TL ngày 19/7/2021 thì “Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A1 so với chữ viết của Hà Đức Q trên các tài liệu mẫu so sánh với ký hiệu M1 và M2 do cùng 1 người viết ra”.
* Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số 14/2022/HS-ST ngày 15/4/2022, Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, Tp. Đà Nẵng đã quyết định:
- Căn cứ: Khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt : Bị cáo Hà Đức Q: 12 (mười hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.Thời gian thụ hình tính từ ngày bắt giam thi hành án.
* Trong hạn luật định, ngày 27 tháng 4 năm 2022, bị cáo Hà Đức Q có đơn kháng cáo với nội dung: Lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; nhân thân chưa có tiền án tiền sự, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị bệnh thần kinh bàng quang thường xuyên phải vào TP Hồ Chí Minh điều trị, là lao động chính trong gia đình, cha bị bệnh ung thư giai đoạn cuối, xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng có quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn đã xét xử bị cáo Hà Đức Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 174 BLHSlà có căn cứ, đúng tội. Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Q; áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng,giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đã xét đến nhân thân của bị cáo Q, áp dụng điểm b, s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 12 tháng tù là phù hợp; bị cáo kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết mới, nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
- Bị cáo Hà Đức Q thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã kết luận; bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo, trình bày do nhận thức pháp luật còn hạn chế nên mới vi phạm pháp luật, bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi của mình,bị cáo lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoàn cảnh gia đình bị cáo thuộc diện khó khăn, cha bị bệnh hiểm nghèo…Bị cáo xin HĐXX khoan hồng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của bị cáo, và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Với thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin và giới thiệu mình tên Hoàng N, nhân viên Ngân hàng đang làm thủ tục cho bà Trần Thị V(bà V đang nợ tiền bà Q), có thể giúp bà Q báo cho bà Q biết thời gian cụ thể giải ngân và làm thủ tục giải ngân nhanh hồ sơ của bà Trần Thị V để bà Qcó thể thu hồi nợ của bà V. Từ đầu tháng 9/2020 đến ngày 20/9/2020, bị cáo Hà Đức Q đã 4 lần chiếm đoạt tiền của bà Q, mỗi lần chiếm đoạt 10.000.000 đồng, tổng cộng đã chiếm đoạt được của bà Q số tiền là 40.000.000 đồng. Với hành vi trên, Tòa án nhân dân quận Ngũ Hành Sơn, TP Đà Nẵng đã xét xử bị cáo Hà Đức Q về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự và xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp từ 2 lần trở lên là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[2]. Xét đơn kháng cáo của bị cáo, HĐXX nhận thấy: Hành vi phạm tội của bị cáođã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được Hiến pháp và pháp luật bảo vệ; gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an, an toàn xã hội. Do vậy, cần phải xét xử nghiêm và có hình phạt tương xứng.
Xét khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo; áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng như:Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;đã bồi thường cho bị hại theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS và cũng đã có xét đến nhân thân, điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 12 tháng tù là có căn cứ pháp luật và phù hợp. Bị cáo cho rằng bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo là không có căn cứ pháp luật, vì bị cáo phạm tội 04 lần và mỗi lần đều có đủ yếu tố cầu thành tội phạm, nên không được áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là đúng. Xét các quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ, đúng pháp luật, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo mà giữ nguyên bản án sơ thẩm về quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[3]. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4]. Do không được chấp nhận kháng cáo, nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hà Đức Q, giữ nguyên bản án sơ thẩm;
Căn cứ: Khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1,2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Hà Đức Q 12 (mười hai) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2.Về án phí: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, bị cáo Hà Đức Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 60/2022/HS-PT
Số hiệu: | 60/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/07/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về