Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 58/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 58/2023/HS-ST NGÀY 05/04/2023 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 5 tháng 4 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 44/2023/TLST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Trần Nguyễn Ngọc T, sinh năm: 2000, tại: Cà Mau; Hộ khẩu thường trú:

Ấp T, xã L, huyện T, tỉnh C; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Nguyễn Ngọc Tr, không rõ năm sinh và bà Trần Thu L, sinh năm 1964; bản thân chưa có vợ; tiền sự: không; tiền án: Ngày 9/04/2021, bị Tòa án nhân dân huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 6 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành án tại trại giam Đ, tỉnh Đ. Đến 04/06/2022 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương; Tạm giam: 12/11/2022. Nhân thân: Ngày 9/10/2015, bị Công an quận T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”. Ngày 27/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh B xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành án tại Trại giam B, tỉnh B. Đến ngày 22/9/2019 chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Đối với bản án này bị can phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi nên không bị coi là có án tích (Có mặt).

Bị hại: Chị Trần Thị Ngọc H, sinh năm 2003; địa chỉ: 560/2A tổ H, Kp2, đường V, phường A, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh ( Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Thông qua mạng xã hội Facebook, tháng 09/2022 Trần Nguyễn Ngọc T (quen biết với chị Huỳnh Thúy V và chị Trần Thị Ngọc H; sinh năm 2003 (HKTT: Ấp P, xã P, huyện C, tỉnh B; Tạm trú: 560/2A tổ H, KP2, đường V, phường A, Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh) đồng thời giữa T và chị V, chị H từng nhiều lần đi chơi, ăn uống cùng nhau và biết chị H sở hữu xe mô tô Honda Vision BKS: 69B1-085.xx và điện thoại di động Iphone 11 màu tím là các tài sản có giá trị, T nảy sinh ý định chiếm đoạt các tài sản trên của chị H nên liên hệ với chị H, chị V hẹn cả hai cùng đi ăn uống với T. Do đã hẹn trước, khoảng 18 giờ 30 ngày 29/10/2022, T đứng chờ chị H, chị V tại trước quán ăn T địa chỉ 233 đường P, Phường M, quận G thì chị H chở chị V trên xe mô tô mang BKS: 69B1 – 085.xx đến quán ăn trên. Khi gặp nhau, T chủ động đề nghị chị H để T đưa xe mô tô Honda Vision của chị H vào bãi giữ xe của quán cất giữ giúp thì chị H tin tưởng, giao xe trên kèm chìa khóa xe cho T sử dụng rồi T đưa xe mô tô Honda Vision trên chị H vào bãi xe trước quán ăn trên. Bảo vệ quán ăn đưa cho T một thẻ giữ xe nhưng T cất giữ thẻ giữ xe này, không đưa thẻ giữ xe và chìa khóa xe lại cho chị H rồi cả T, chị H, chị V vào trong quán ăn trên ăn uống. Khi đang ăn uống cùng nhau, T giả vờ dùng điện thoại di động cá nhân gọi điện thoại cho ai đó rủ đến quán cùng tham gia ăn uống với T, chị V, chị H nhưng khi đang gọi điện thì hết tiền điện thoại nên mượn điện thoại di động Iphone 11 64GB màu tím của chị H sử dụng. Chị H tin tưởng giao điện điện thoại di động Iphone 11 tím của chị H cho T thì T giả vờ sử dụng điện thoại di động của chị H đi ra trước cửa quán ăn trên gọi điện. Khi ra khỏi quán ăn, T cất giữ điện thoại di động IPhone 11 màu tím của chị H vào trong người rồi dùng thẻ giữ xe đang còn cất giữ đưa cho bảo vệ trông coi xe để lấy xe Honda Vision BKS: 69B1 – 085.xx của chị H ra khỏi bãi. T điều khiển xe mô tô Honda Vision trên đến khách sạn (không rõ tên, địa chỉ) trên đường L, quận T mở cốp xe Honda Vision trên ra kiểm tra thì phát hiện bên trong có 01 ví cầm tay bằng vải màu đen, trong ví có chứa 01 Căn cước công dân và 01 thẻ ATM Ngân hàng MB Bank đều mang tên Trần Thị Ngọc H nên T cất giữ nguyên vẹn chiếc ví này vào trong người.

Sau khi chiếm đoạt được các tài sản trên của chị H, T vào trang mạng xã hội Facebook liên hệ được với 01 nam thanh niên (không rõ lai lịch, không nhớ rõ tên tài khoản Facebook của người nam thanh niên trên) có thỏa thuận trao đổi xe không giấy. Như đã hẹn, T và người nam thanh niên trên gặp nhau tại 255 đường H, quận T để cả hai cùng nhau xem xe thì T nhận xe Honda Winer BKS: 59Z1 – 381.xx từ nam thanh niên trên đồng thời T giao xe Honda Vision BKS: 69B1 – 085.xx chiếm đoạt của chị H trước đó cho người nam thanh niên trên rồi cả T và người nam thanh niên trên rời đi.

Ngày 30/10/2022, qua mạng xã hội Facebook T liên hệ với 01 người nam thanh niên (không rõ lai lịch) hẹn đến trước địa chỉ 54 đường N, phường Đ, Quận M thì T đã bán chiếc điện thoại di động Iphone 11 màu tím chiếm đoạt của chị H trước đó cho người nam thanh niên trên được số tiền 5.000.000 đồng và tiêu xài hết số tiền này vào các ngày sau đó.

Riêng chị H sau khi bị T chiếm đoạt tài sản thì không đến Cơ quan Công an tố giác tội phạm ngay mà nhờ bạn bè chủ động đi tìm kiếm T. Ngày 11/11/2022, phát hiện T điều khiển xe mô tô Honda Winer BKS: 59Z1 – 381.xx dừng trước địa chỉ 93 đường V, Phường B, quận B thì chị H, chị V cùng bạn bè giữ T lại đưa T và xe mô tô Honda Winer trên về trụ sở Công an Phường M, quận G tố giác T về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như nội dung vụ việc nêu trên.

Tại Công an Phường M, quận G, T thừa nhận toàn bộ hành vi chiếm đoạt xe mô tô Honda Vision BKS 69B1 - 085.xx và điện thoại di động Iphone 11 màu tím của chị H như nội dung vụ việc trên. Ngoài ra, T tự nguyện giao nộp 01 ví đen bên trong có chứa 01 Căn cước công dân và 01 thẻ ATM Ngân hàng MB Bank đều mang tên Trần Thị Ngọc H cùng 01 xe mô tô Honda Winer BKS 59Z1 - 381.xx.

Tại kết luận định giá tài sản 258 ngày 18/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự - UBND quận Gò Vấp kết luận 01 xe mô tô hai bánh hiệu Honda Vision biển số 69B1-085.xx, số máy JF58E0833592, số khung RLHJF5801EY833562, đã qua sử dụng ngày 29/10/2022 là 18.533.333 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, dung lượng 64GB, số imei 353978107732562 đã qua sử dụng ngày 29/10/2022 trị giá 4.433.333 đồng. Tổng trị giá 22.966.666 đồng.

Qua xác minh xe mô tô Honda Vision biển số 69B1-085.xx, số máy: JF58E0833592, số khung: RLHJF5801EY833562 do chị Trương Huỳnh N, sinh năm 1997, HKTT: Khóm B, Phường T, Thành phố C, tỉnh C đứng tên chủ sở hữu. Chi N khai mua xe trên cho em gái tên Trương Khánh Đ, sinh năm 2003 và đứng tên dùm cho em gái. Chị Trương Khánh Đ khai nhận đã bán xe máy trên cho chị Trần Thị Ngọc H vào ngày 25/10/2022 với số tiền 20.000.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục sang tên.

Vật chứng thu giữ : Một USB ghi lại hình ảnh T chiếm đoạt tài sản (lưu theo hồ sơ vụ án);

Một ví vải màu đen có họa tiết màu trắng bên trong chứa một CCCD và một thẻ ATM Ngân hàng MB Bank đều mang tên Trần Thị Ngọc H. Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại tài sản trên cho chị H.

Một chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu xanh rêu là tài sản cá nhân của T Một chiếc điện thoại di động Sam Sung A13 màu hồng có số Imei1:

352469854466829; Số Imei2: 357132374466829. T khai điện thoại này T chiếm đoạt của anh Nguyễn Minh Tr, sinh năm 1992 (HKTT: 68/286 đường T, phường T, Quận M) tại nhà nghỉ H, địa chỉ: 575B đường V, phường L, Thành phố L, tỉnh A. Cơ quan điều tra đã mời anh Nguyễn Minh Tr đến làm việc, anh Tr khai nhận bị T lấy trộm 01 điện thoại Sam Sung A13 màu hồng và số tiền 5.000.000 đồng và chiếm đoạt của anh Nguyễn Văn K 01 điện thoại hiệu Iphone 13 Promax và số tiền 6.000.000 đồng tại nhà nghỉ H, địa chỉ: 575B đường V, phường L, Thành phố L, tỉnh A. Cơ quan điều tra đã chuyển tin báo trên đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an TP. L, tỉnh A giải quyết theo thẩm quyền.

Một xe mô tô hiệu Honda Winer mang BKS: 59Z1 – 381.xx có số khung: RLMKCZ603GY029877; Số máy: RC26E1049849. Qua xác minh số khung, số máy của xe mô tô Honda Winner có biển số 69D1-543xx do anh Trần Văn Q, sinh năm 1992, HKTT: Ấp S, xã T, huyện T, tỉnh C đứng tên chủ quyền xe. Anh Q khai chiếc xe mô tô hiệu Honda Winner mang BKS: 69D1-543xx do anh đứng tên chủ sở hữu và anh đã bán lại cho một người đàn ông (không rõ lai lịch), không làm hợp đồng mua bán và chưa làm thủ tục sang tên.

Qua xác minh biển số xe 59Z1-381.xx là xe mô tô Vision có số khung: RLHJF5811GY763055, số máy: JF66E0527462 do anh Mai Anh N, sinh năm 1989, HKTT: Thôn S, xã T, huyện B, tỉnh B đứng tên chủ sở hữu. Anh N khai năm 2022 anh N đã bán xe máy trên cho một người đàn ông (không rõ lai lịch) và chưa làm thủ tục sang tên.

Cơ quan điều tra đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu đối với chiếc xe mô tô hiệu Honda Winer có số khung: RLMKCZ603GY029877; Số máy: RC26E1049849 để làm rõ về nguồn gốc xe trên nhưng đến nay vẫn chưa có ai đến liên hệ làm việc.

Về trách nhiệm dân sự: chị Trần Thị Ngọc H yêu cầu T bồi thường số tiền 29.000.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 51/CT-VKS – Q. GV, ngày 17/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Trần Nguyễn Ngọc T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà Đại diện viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Nguyễn Ngọc T từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Buộc bị cáo bồi thường cho chị H số tiền 29.000.000 đồng. Trả lại cho bị cáo một điện thoại di động Iphone 13 Pro Max màu xanh rêu. Giao Cơ quan công an quận Gò Vấp tạm giữ để chuyển xử lý theo thẩm quyền đối với một điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Samsung Galaxy A13 màu hồng số Imeil:

352469854466829; số Imei2 357132374466829. Tịch thu nộp ngân sách nhà nước một xe mô tô hiệu Honda Winner số khung RLHKC2603GY029877, số máy KC26E1049849. Tịch thu và tiêu hủy một biển kiểm soát 59Z1-381.xx Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên toà hôm nay, sau khi Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp công bố bản cáo trạng thì Trần Nguyễn Ngọc T đã thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

[2] Đối chiếu lời khai bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của người bị hại, cùng với tang vật đã thu giữ, phù hợp với kết luận điều tra của cơ quan Công an quận Gò Vấp, với bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp và với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Trần Nguyễn Ngọc T đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 .

Với ý thức chiếm đoạt tài sản của bị hại, bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của bị hại là xe Honda Vison, biển số 69B1 - 085.xx và chiếc điện thoại di động. Bị cáo có nhân thân xấu đã từng bị xử lý về hành vi trộm cắp tài sản và 01 tiền án về tội Trộm cắp tài sản nhưng không chịu ăn năn hối cải lại tiếp tục lao vào con đường phạm tội nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc trường hợp tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Vì vậy, việc xử lý bị cáo bằng biện pháp hình sự là hết sức cần thiết và đúng quy định của pháp luật, cần có mức án nghiêm khắc tương xứng với tội lỗi của bị cáo nhằm giúp cho bị cáo có điều kiện học tập cải tạo trở thành người tốt hơn cho xã hội, sau này biết tôn trọng pháp luật và tôn trọng tài sản của người khác, đồng thời cũng nhằm để có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

[3]Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét cho bị cáo một số tình tiết: Tại Cơ quan điều tra và qua diễn biến phiên tòa hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải; Gia đình bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4]Về hình phạt bổ sung qui định tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên miễn hình phạt đối với bị cáo.

[5]Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa hôm nay bị hại chị H vắng mặt nhưng qua hồ sơ thể hiện chị yêu cầu bị cáo bồi thường cho chị số tiền 29.000.000 đồng. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại. Hội đồng xét thấy đây là sự thỏa thuận tự nguyện không trái pháp luật nên ghi nhận.

Đối với một USB ghi lại hình ảnh bị cáo chiếm đoạt tài sản được lưu theo hồ sơ vụ án.

Đối với một ví vải màu đen có họa tiết mà trắng bên trong chứa một căn cước công dân và một thẻ ATM ngân hàng MB Bank, Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Trần Thị Ngọc H. Chị H không có ý kiến gì nên Hội đồng xét xử không đem ra xem xét lại.

Đối với một điện thoại di động kiểu dáng Iphone màu xanh rêu là tài sản riêng của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

Đối với một điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Samsung Galaxy A13 màu hồng số Imeil: 352469854466829; số Imei2 357132374466829. Hội đồng xét xử nhận thấy đây không phải là vật chứng của vụ án, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp tạm giữ để chuyển xử lý theo thẩm quyền.

Đối với một xe mô tô hiệu Honda Winner mang biển kiểm soát 59Z1- 381.xx là biển số giả có số khung RLHKC2603GY029877, số máy KC26E1049849. Cơ quan điều tra đã đăng báo tìm chủ sở hữu để làm rõ nguồn gốc xe nhưng đã quá thời hạn chưa có ai đến làm việc nên Hội đồng xét xử quyết định tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với người thanh niên đổi xe và mua điện thoại của bị cáo không rõ lai lịch khi nào xác định được, làm rõ sẽ xử lý sau.

[7] Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Tuyên bố bị cáo Trần Nguyễn Ngọc T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51; điển h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt bị cáo Trần Nguyễn Ngọc T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tạm giữ, tạm giam 12/11/2022.

Căn cứ Điều 46; Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trả lại cho bị cáo một điện thoại di động đã qua sử dụng kiểu dáng Iphone 13 Pro Max màu xanh rêu, không kiểm tra hiện trạng máy.

Giao Cơ quan công an quận Gò Vấp tạm giữ để chuyển xử lý theo thẩm quyền đối với một điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu Samsung Galaxy A13 màu hồng số Imeil: 352469854466829; số Imei2 357132374466829.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước một xe mô tô hiệu Honda Winner số khung RLHKC2603GY029877, số máy KC26E1049849. Tịch thu và tiêu hủy một biển kiểm soát 59Z1-381.xx.

(Theo phiếu nhập kho vật chứng số 19/PNK ngày 8/02/2023 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Gò Vấp) Buộc bị cáo bồi thường cho chị Trần Thị Ngọc H số tiền 29.000.000 đồng (Hai mươi chín triệu) đồng ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Áp dụng Điều 357 Bộ luật dân sự năm 2015 Kể từ khi chị H có đơn yêu cầu thi hành án, bị cáo chưa thi hành khoản tiền nêu trên thì hàng tháng, bị cáo còn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 1.450.000 (Một triệu bốn trăm năm mươi ngàn) đồng.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày được tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết.

Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008;

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

62
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 58/2023/HS-ST

Số hiệu:58/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;