Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 558/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 558/2021/HS-ST NGÀY 31/12/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 31 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 498/2021/TLST-HS ngày 25 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 673/2021/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2021, đối với bị cáo:

Trần Thanh L; Giới tính: nam; sinh năm 1982, tại An Giang; Thường trú: Ấp Vĩnh Lập, xã Vĩnh Trung, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang; Nơi cư trú: không nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Trình độ văn hóa: lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Quốc Phú (sinh năm 1940) và bà: Trương Thị X (sinh năm 1950); Bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Bích, sinh năm 1987, có 01 con sinh năm 2008.

Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị tạm giam giữ từ ngày 21/5/2021. (có đơn xin xét xử vắng mặt).

Bị hại:

- Ông Lưu Chí L, sinh năm 1998.

Địa chỉ: 36 Đường T, khu phố 7, thị trấn B, huyện B, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

- Ông Lê Minh C, sinh năm 1997 Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh (vắng mặt).

- Ông Trần Minh T, sinh năm 1995 Địa chỉ: 59 ấp An B, xã H, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. (vắng mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Hoàng Văn T, sinh năm 1972 Địa chỉ: 99 Đường Đ, khu phố 1, phường B, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

- Ông Lê Đức T, sinh năm 1973 Địa chỉ: 135 Đường số 61, khu phố 2, phường B, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. (Vắng mặt)

 - Bà Đỗ Thị P, sinh năm 1967 Địa chỉ: 678, T10, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Thanh L là nhân viên bảo vệ của Công ty cổ phần dịch vụ bảo vệ Việt Thiên Long, được phân công làm bảo vệ tại nhà trọ Vidoland, địa chỉ số 30B, đường số 3, khu phố 6, phường T, quận Thủ Đức (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh. Trong quá trình làm việc tại đây, L quen biết anh Lê Minh C, anh Lưu Chí L, anh Trần Minh T là người thuê phòng tại nhà trọ Vidoland nên vào các ngày 14/9/2019 và ngày 15/9/2019, L đã dùng thủ đoạn gian dối là giả mượn xe nói là đi công việc nhưng thực chất là mang xe đi cầm lấy tiền tiêu xài. Cụ thể Trần Thanh L đã thực hiện 03 vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản như sau:

Khoảng 18 giờ, ngày 14/9/2019, tại địa chỉ số nhà 30B, đường số 3, khu phố 6, phường T, quận Thủ Đức, Trần Thanh L mượn xe mô tô hiệu Honda Airblade màu xanh bạc đen, biển số 70H1-xxxxxx, số máy JF63E-1405168, số khung 6308FZ- xxxxxx do anh Lưu Chí L đứng tên chủ sở hữu để đi công việc thì anh L đồng ý, giao xe và giấy đăng ký xe cho L. Ngày 15/9/2019, L mang xe mô tô biển số 70H1-xxxxxx đi cầm cố tại chi nhánh công ty TNHH MTV phát triển T, địa chỉ 222, đường Đỗ Xuân Hợp, khu phố 6, phường A, Quận 9 cho anh Hoàng Văn T1 được 20.000.000 đồng (ký hợp đồng cầm đồ số 4042 ngày 15/9/2019) rồi quay về nhà trọ Vidoland tiếp tục làm việc.

Khoảng 18 giờ ngày 15/9/2019, L tiếp tục gặp anh Lê Minh C mượn 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh bạc biển số 70H1-xxxxx số máy 5C6J-168042, số khung C6J0FY-168033 do bà Đỗ Thị P (sinh năm 1967; Thường trú 678, T10, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh) là mẹ ruột của anh Lê Minh C đứng tên chủ sở hữu thì anh C đồng ý nên anh C giao xe và giấy tờ xe trên cho L. Ngay sau đó, L mang xe mô tô biển số 70H1-xxxxx đi cầm cố tại chi nhánh công ty TNHH MTV phát triển T, địa chỉ 222, đường Đỗ Xuân Hợp, khu phố 6, phường A, Quận 9 cho anh Hoàng Văn T1 được 8.000.000 đồng (ký hợp đồng cầm đồ số 4058 ngày 15/9/2019) rồi quay về nhà trọ Vidoland tiếp tục làm việc.

Khoảng 19 giờ ngày 15/9/2019, L gọi điện thoại cho anh Trần Minh T hỏi mượn xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 59L1-xxxxx, số máy 5C- 641082283, số khung DY-082264 (xe do anh Nguyễn Ngọc Hải (sinh năm 1974;

Thường trú 157/7/1A, đường Dương Bá Trạc, Phường 1, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên chủ sở hữu, năm 2014 anh Hải đã bán lại cho anh Trần Minh T) để đi công việc thì anh T đồng ý. Anh T nói L đến phòng trọ số 505, địa chỉ số 30B, đường số 3, khu phố 6, phường T, quận Thủ Đức của anh T lấy chìa khoá xe và giấy tờ đăng ký xe. Khoảng 21 giờ 00 phút, cùng ngày L mang xe mô tô biển số 59L1-xxxxx đến tiệm cầm đồ D tại số 135 đường số 61, khu phố 2, phường B cầm cho anh Lê Đức Th được 6.000.000 đồng (ký hợp đồng số A458 ngày 15/9/2019).

Sau khi cầm được tổng số tiền 34.000.000 đồng, L tiêu xài cá nhân hết và nói dối với anh L, anh C, anh T do thua cá độ bóng đá nên đã mang xe các anh đi cầm, L thuê Grabbike gửi 03 hợp đồng cầm xe trên cho anh L, anh C, anh T. L không có khả năng chuộc xe và bỏ trốn. Ngày 19/9/2019 anh Lưu Chí L, anh Lê Minh C, anh Trần Minh T đến Công an phường T trình báo. Ngày 19/9/2019 Cơ quan điều tra tiến hành làm việc với anh Hoàng Văn T1 chủ tiệm cầm đồ T và anh Lê Đức Th chủ tiệm cầm đồ “D” thu hồi 03 xe trên.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức,Trần Thanh L khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Kết luận định giá tài sản số 1871 ngày 04/10/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Thủ Đức kết luận: 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh bạc biển số 70H1-xxxxx, số máy 5C6J-168042, số khung C6J0FY-168033, trị giá 12.000.000 đồng. 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu xanh bạc đen, biển số 70H1- xxxxxx, số máy JF63E-1405168, số khung 6308FZ-xxxxxx, trị giá 26.000.000 đồng. 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 59L1-xxxxx, số máy 5C- 641082283, số khung DY-082264, trị giá 11.000.000 đồng. Tổng trị giá tài sản chiếm đoạt 49.000.000 đồng.

Vật chứng vụ án:

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh bạc biển số 70H1-xxxxx, số máy 5C6J-168042, số khung C6J0FY-168033 do bà Đỗ Thị Ph (sinh năm 1967; HKTT:

678, T10, ấp T, xã T, huyện B, tỉnh Tây Ninh) là mẹ ruột của anh Lê Minh C đứng tên chủ sở hữu. Ngày 09/01/2020 Cơ quan điều tra đã trả xe trên và giấy tờ xe cho anh C.

- 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu xanh bạc đen, biển số 70H1-xxxxxx, số máy JF63E-1405168, số khung 6308FZ-xxxxxx do anh Lưu Chí L đứng tên chủ sở hữu. Ngày 09/01/2020 Cơ quan điều tra đã trả xe trên và và giấy tờ xe cho anh L.

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 59L1-xxxxx, số máy 5C- 641082283, số khung DY-082264 do anh Nguyễn Ngọc Hải (sinh năm 1974; HKTT: 157/7/1A, đường Dương Bá Trạc, Phường 1, Quận 8, TP. Hồ Chí Minh) đứng tên chủ sở hữu, năm 2014 anh Hải đã bán lại cho anh Trần Minh T. Ngày 09/01/2020 Cơ quan điều tra đã trả xe trên và giấy tờ xe cho anh T - 03 hợp đồng cầm đồ số 4058/HĐCĐ, 4042/HĐCĐ và A458 lưu theo hồ sơ vụ án.

Trách nhiệm dân sự:

- Các anh Lưu Chí L, anh Lê Minh C, anh Trần Minh T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì.

- Bà Trương Thị X mẹ của bị can đã bồi thường số tiền 28.000.000 đồng cho anh Hoàng Văn T1 là chủ tiệm cầm đồ T và 6.000.000 đồng cho anh Lê Đức Th chủ tiệm cầm đồ “D”.

Tại bản Cáo trạng số 395/CT-VKSTPTĐ ngày 23/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Thanh L về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên toà sơ thẩm:

Bị cáo Trần Thanh L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt có xác nhận của Cơ quan quản lý tạm giữ tạm giam – Công an thành phố Thủ Đức. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức có ý kiến: xét đơn xin vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử nên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c, d Khoản 2 Điều 290 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 để xét xử vắng mặt đối với bị cáo.

Những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên xét xử vắng mặt họ.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận xét xử vắng mặt bị cáo, bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức phát biểu ý kiến giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Thanh L về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo Trần Thanh L phạm tội 02 lần trở lên nên thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra bị cáo L phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, bị cáo khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi trả cho người bị hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó đề nghị áp dụng điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Trần Thanh L tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù đến 02 (hai) năm tù.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ các tài liệu chứng cứ thu thập được có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Vào các ngày 14/9/2019 và ngày 15/9/2019, tại nhà số 30B, đường số 3, khu phố 6, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, Trần Thanh L đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu xanh bạc đen, biển số 70H1-xxxxxx, trị giá 26.000.000 đồng của anh Lưu Chí L; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh bạc biển số 70H1-xxxxx, trị giá 12.000.000 đồng của anh Lê Minh C; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 59L1- xxxxx, trị giá 11.000.000 đồng anh Trần Minh T bị phát hiện nên L bỏ trốn. Đến ngày 21/5/2021, L đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thủ Đức đầu thú. Bị cáo L khai do không có tiền để trả nợ nên L đã dùng thủ đoạn gian dối mượn xe của các anh L, C và T sau đó đem đi cầm lấy tiền trả nợ, ý định mượn xe đem đi cầm có trước khi bị cáo hỏi mượn xe. Do đó hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật, nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là phạm tội và sẽ bị pháp luật trừng trị, nhưng với động cơ, mục đích muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để đem cầm lấy tiền trả nợ nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g, khoản 1, Điều 52 Bộ luật hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2017, do đó cần áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết: trong quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã khai nhận thành khẩn, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả cho người bị hại, đã bồi thường nên áp dụng quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017, để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 174 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Xét tính chất mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng:

- Đối với 03 hợp đồng cầm đồ số 4058/HĐCĐ, 4042/HĐCĐ và A458 là tài liệu chứng cứ cần tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu xanh bạc biển số 70H1-xxxxx; 01 xe mô tô hiệu Honda Airblade màu xanh bạc đen, biển số 70H1-xxxxxx; 01 xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu trắng đen biển số 59L1-xxxxx, Cơ quan điều tra đã trả lại cho người bị hại là anh C, anh L và anh T, những người bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Bà Trương Thị X mẹ của bị cáo L đã bồi thường số tiền 28.000.000 đồng cho anh Hoàng Văn T1 là chủ tiệm cầm đồ T và 6.000.000 đồng cho anh Lê Đức Th chủ tiệm cầm đồ “D”, Anh T1 và anh Linh đã nhận lại tiền và không có yêu cầu gì khác.

[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Thanh L phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Thanh L: 02 (hai) năm tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/5/2021.

3. Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; bị cáo Trần Thanh L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng.

4. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo Trần Thanh L, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

56
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 558/2021/HS-ST

Số hiệu:558/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;