TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 523/2022/HS-PT NGÀY 09/08/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 421/2022/HSPT ngày 28 tháng 6 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Chu C do Bản án hình sự sơ thẩm số: 70/2022/HSST ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương bị kháng cáo.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Chu C, sinh năm 1973 tại tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: khu phố Đông A, phường Đông Hòa, thành phố D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: không, trình độ văn hóa (học vấn): lớp 4/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Phạm Thị T; có vợ đã ly hôn và có 02 con; tiền sự: không; tiền án: không; nhân thân: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam từ ngày 16/10/2021 đến nay; (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Chu C: Ông Nguyễn Hồng N - Luật sư Công ty Luật THNN DL Pinnacle thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt)
Bị hại:
1. Ông Nguyễn Huy Th, sinh năm 1980; nơi cư trú: số 26/34, đường B, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương; có mặt.
2. Bà Lê Huỳnh Phương Tr, sinh năm 1979; nơi cư trú: số 15/43, đường C, Phường 12, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Văn phòng Luật sư Vũ Minh L; địa chỉ: số 11, lô B, cư xá 304, Phường 25, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Đình M, sinh năm 1981; Địa chỉ: số 13, tổ 1, khu phố 4, xã A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo Cáo trạng của Viện kiểm sát và bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Chu C không có nghề nghiệp ổn định, C chơi đánh bạc và thiếu nợ nhiều người, để có tiền tiêu xài và trả nợ, C nảy sinh ý định dùng thủ đoạn gian dối chuyển nhượng một phần diện tích đất và nhà thuộc khu phố Đông A, phường Đ, thành phố D không phải của C cho ông Nguyễn Huy Th và bà Lê Huỳnh Phương Tr để chiếm đoạt số tiền 2.300.000.000 đồng.
Đầu tháng 9 năm 2019, C hỏi ông Nguyễn Huy Th có nhu cầu nhận chuyển nhượng diện tích đất 100m2, giá chuyển nhượng là 2.300.000.000 đồng (trên đất có 01 căn nhà diện tích 6,5m x 14m) thuộc thửa đất số 1801, tờ bản đồ số 4DH.1, diện tích 1848,2m2 tại khu phố Đông A, phường Đông Hòa, thành phố D do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) D, tỉnh Bình Dương cấp ngày 19/9/2007 cho ông Nguyễn Văn S (cha ruột C), hiện ông S đang làm thủ tục tách thửa cho C. C đưa cho ông Th các giấy tờ photo gồm: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 06398 thửa đất số 1801, tờ bản đồ số 4 DH.1 đứng tên Nguyễn Văn S, giấy chứng minh nhân dân của ông S và C, sổ hộ khẩu do C đứng tên chủ hộ, giấy biên nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả đề ngày 10/9/2019 của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Ủy ban nhân dân thành phố D thể hiện ông Nguyễn Văn S nộp hồ sơ tại Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai D để tách thửa cho C. C cam kết là đất của C và không có tranh chấp, khi làm thủ tục tách thửa xong thì sẽ làm thủ tục sang tên cho Th, hẹn đến ngày 18/9/2019 sẽ làm hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Sau đó, C dẫn ông Th và bà Lê Huỳnh Phương Tr (bà Tr sống chung như vợ chồng với Th) đi xem nhà và đất, ông Th, bà Tr thấy có căn nhà gắn số 56/9, đường Nguyễn Hữu Cảnh, phường Đông Hòa, thành phố D trùng khớp với địa chỉ số nhà trong sổ hộ khẩu photo do C đứng tên chủ hộ nên ông Th, bà Tr tin tưởng đồng ý nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất của C.
Ngày 18/9/2019, C và ông Th, bà Tr đến Văn phòng Luật sư Vũ Minh L (địa chỉ: khu phố Đ, phường D, thành phố D) ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, nội dung hợp đồng thể hiện Nguyễn Chu C đồng ý chuyển nhượng cho ông Nguyễn Huy Th, bà Lê Huỳnh Phương Tr diện tích 100m2 (trên đất có 01 căn nhà diện tích 6,5m x 14m) thuộc một phần thửa đất số 1801, tờ bản đồ số 4DH.1, diện tích 1848,2m2 tại khu phố Đông A, phường Đông Hòa, thành phố D do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thành phố) D, tỉnh Bình Dương cấp ngày 19/9/2007 cho ông Nguyễn Văn S, nguồn gốc thửa đất ông Nguyễn Văn S cho con là Nguyễn Chu C 100m2 để xây dựng nhà ở. Sau khi ký hợp đồng, ông Th, bà Tr giao số tiền 2.300.000.000 đồng cho C có sự chứng kiến của bà Lê Thị H nhân viên Văn phòng Luật sư Vũ Minh L.
Đến đầu tháng 11 năm 2019, ông Th điện thoại cho C nhưng không liên lạc được nên đến Văn phòng Đăng ký đất đai D kiểm tra thì biết không có sự việc Văn phòng Đăng ký đất đai D tiếp nhận hồ sơ xin tách thửa của ông Nguyễn Văn S cho Nguyễn Chu C. Số tiền 2.300.000.000 đồng chiếm đoạt của ông Th và bà Tr, C đem trả nợ. Sau đó, C bỏ trốn khỏi địa phương, đến sinh sống tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Bản Kết luận giám định số 225 ngày 30/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: chữ ký, chữ viết và dấu vân tay của Nguyễn Chu C trên 01 hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đề ngày 18/9/2019 có bên làm chứng của Chi nhánh 2 - Văn phòng Luật sư Vũ Minh L, địa chỉ: khu phố Đ, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương cùng do Nguyễn Chu C ký, viết và in ra.
Quá trình điều tra xác minh: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số H 06398 thửa đất số 1801, tờ bản đồ số 4 DH.1, diện tích 1848,2m2 do ông Nguyễn Văn S đứng tên chủ sở hữu. Ngày 10/3/2010, cha mẹ của C là ông Nguyễn Văn S, bà Phạm Thị T làm hợp đồng tặng cho Nguyễn Chu C diện tích 82,4m2 và C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2011, C đã chuyển nhượng thửa đất này cho ông Hoàng Trung N. Ông S không biết việc C chuyển nhượng đất cho bà Tr, ông Th và không đồng ý cho C chuyển nhượng một phần diện tích đất trên tổng diện tích đất của ông S, bà Tư.
Sau khi chiếm đoạt tiền của bị hại, thì bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã.
Văn phòng Luật sư Vũ Minh L có văn bản trình bày: Văn phòng Luật sư Vũ Minh L thực hiện chức năng theo đúng quy định của pháp luật. Trong vụ án này, bị cáo và bị hại đến nhờ Văn phòng soạn thảo hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên các thông tin do các bên đưa ra, và bà H là nhân viên làm chứng. Văn phòng Luật sư Vũ Minh L không có quyền lợi, nghĩa vụ gì về vụ án.
Tại Cáo trạng số: 34/CT-VKSBD.P1 ngày 08/3/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương truy tố Nguyễn Chu C về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 70/2022/HSST ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chu C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Chu C 13 (mười ba năm) tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2021.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phần phần trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 02/6/2022 bị cáo Nguyễn Chu C làm đơn kháng cáo kêu oan.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, bị cáo Nguyễn Chu C vẫn giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Bị cáo Nguyễn Chu C đã đưa ra thông tin sai sự thật cho rằng đất đã được ông S cho và hồ sơ ông S cho đất đang nộp tại cơ quan Nhà nước để tách thửa, bị cáo giao các giấy tờ là bản pho to Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông S, chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của ông S và tờ biên nhận hồ sơ và trả kết quả ngày 10/9/2019 để tạo tin tưởng cho bị hại đồng ý nhận chuyển nhượng và giao tiền cho bị cáo. Sau khi chiếm đoạt được tiền, bị cáo bỏ trốn khỏi nơi sinh sống, hành vi trên là lừa đảo. Việc bị cáo cho rằng, bị hại cho vay tiền phải có chứng cứ chứng minh; bị hại không thừa nhận cho bị cáo vay tiền nên không đủ căn cứ xác định có giao dịch vay tiền. Bị cáo thừa nhận có viết đã nhận đủ 2.300.000.000 đồng, và kết luận giám định là chữ ký, chữ viết của bị cáo tại hợp đồng chuyển nhượng nên đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội lừa đảo. Do vậy kháng cáo kêu oan của bị cáo là không có căn cứ, xét mức án 13 năm tù mà Tòa sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo tranh luận: Tại sơ thẩm chưa làm rõ bị cáo có thực chất nhận tiền của bị hại không? Chính Th là người đưa C trang mạng để cá cược bóng đá và bị thua nhiều lần nên bị cáo vay Th khoảng 250 triệu đồng nhưng số tiền Th đưa cho bị cáo thực tế vay có 20 triệu đồng. Đề nghị hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại.
Bị cáo trình bày: Th ngay từ đầu biết đất đó không phải của bị cáo nhưng vẫn bảo sẽ làm được giấy tờ. Bị cáo ký giấy nhận tiền do bị Th đe dọa ép buộc chứ thực tế bị cáo chưa nhận tiền. Bị cáo không có tội đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của Luật sư và của bị cáo.
[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Chu C: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Chu C được làm trong thời hạn luật định. Do đó, đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Mặc dù tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo Nguyễn Chu C vẫn giữ nguyên kháng cáo kêu oan, cho rằng mình không lừa đảo bị hại, cũng không có nhận tiền của bị hại là ông Nguyễn Huy Th và bà Lê Huỳnh Phương Tr nhưng căn cứ vào các chứng cứ sau:
- Tại các lời khai tại BL 283 lúc bị bắt ngày 16/10/2021, bị cáo thừa nhận thực hiện hành vi gian dối trong việc chuyển nhượng 100m2 đất của ông S để chiếm đoạt của bị hại số tiền 2.300.000.000 đồng. Đồng thời tại các biên bản hỏi cung bị can đối với C tại các bút lục 283, 296, 302, 347, 335 … bị cáo C cũng thừa nhận hành vi lừa dối bị hại để chiếm đoạt số tiền 2.300.000.000 đồng.
- Văn bản của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố D không lập Biên nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả số 2019120000160/BN đề ngày 10/9/2019 và cũng không tiếp nhận hồ sơ tách thửa từ ông S cho bị cáo C. Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối với diện tích 100m2 đất và căn nhà trên cho bà Tr, ông Th.
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương đã thu thập 01 Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đề ngày 18/9/2019 giữa bên chuyển nhượng Nguyễn Chu C và bên nhận chuyển nhượng Lê Huỳnh Phương Tr, Nguyễn Huy Th; 01 biên bản thu mẫu chữ viết ngày 16/02/2022 và các tài liệu lời khai khác đưa đi giám định. Tại Kết luận số 82/KL-KTHS ngày 18/3/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương đã xác định: “Chữ ký viết tên “C” tại trang 1,2,3 và chữ viết có nội dung “Tôi đã nhận đủ tiền 2.300.000.000 đồng dưới mục “Bên nhận chuyển nhượng (Bên A)” trên “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”, đề ngày 18/9/2019 (ký hiệu A) so với chữ ký viết tên “C” và chữ viết của Nguyễn Chu C trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M1 và M2) do cùng một người ký và viết ra.
- Các biên bản ghi lời khai của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án và các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra vụ án.
Với các chứng cứ nêu trên đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Chu C dùng thủ đoạn gian dối, đưa ra thông tin, tài liệu giả về diện tích đất 100m2 (gắn liền căn nhà) thuộc một phần thửa đất 1801, tờ bản đồ số 4DH.1, phường Đông Hòa, thành phố D, tỉnh Bình Dương đang được ông Nguyễn Văn S tách thửa cho bị cáo là không đúng sự thật, nhưng đã tạo niềm tin cho bị hại Nguyễn Huy Th và Lê Huỳnh Phương Tr tin tưởng, đồng ý nhận chuyển nhượng và giao cho bị cáo số tiền 2.300.000.000 đồng. Sau khi chiếm đoạt được tiền của bị hại, bị cáo bỏ trốn và tiêu dùng hết số tiền chiếm đoạt của bị hại. Hành vi của bị cáo đủ căn cứ truy tố, xét xử về “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự như cấp sơ thẩm xử là có căn cứ, đúng pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo khai rằng bị cáo vay tiền của bị hại và thường xuyên sang Campuchia đánh bạc, do vay tiền của ông Th không có trả nên ông Th bày cách cho bị cáo làm hợp đồng chuyển nhượng đất, yêu cầu bị cáo ghi đã nhận tiền để ông S (cha bị cáo) phải cho bị cáo tiền trả nợ, do ông S không cho tiền nên bị cáo bỏ trốn để ông Th không đến làm khó cho gia đình. Tuy nhiên, ông Th không thừa nhận lời khai của bị cáo.
[3] Tội phạm bị cáo thực hiện là đặc biệt nghiêm trọng, làm thiệt hại về tài sản của bị hại và ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần xét xử nghiêm để răn đe bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Tòa án cấp sơ thẩm khi xét xử đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: quá trình điều tra và truy tố bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử bị cáo mức án 13 năm tù là phù hợp, không nặng.
Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo kháng cáo nhưng không có thêm tình tiết gì mới phát sinh. Do vậy, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[4] Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Nguyễn Chu C phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1/ Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Chu C. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 70/2022/HSST ngày 18 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Tuyên xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Chu C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Chu C 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/10/2021.
2/ Tiếp tạm tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.
3/ Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Nguyễn Chu C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4/ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 523/2022/HS-PT
Số hiệu: | 523/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về