Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 43/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 21/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số : 221/2021/HSST ngày 25 tháng 11 năm 2021 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số : 222 /2021/QĐXXST- HS ngày 22 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn Ng ; Sinh năm: 1986; Tên gọi khác : không; Tại : Cà Mau; Nơi cư trú : ấp A, xã B, thành phố C, tỉnh D; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc : Kinh ; giới tính : nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn H và bà Lê Thị T; Vợ : chưa có; Tiền án ;Tiền sự: không ; Nhân thân : Ngày 03/11/2021 bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản ”.

Hiện đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Củ Chi, Thành Phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

Bị hại: Anh Võ Hoàng Tr; sinh năm : 1988; Nơi cư trú: Ấp Hồng Phước, xã G, huyện H, tỉnh D. Xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau :

Vào khoảng 17 giờ ngày 16 tháng 6 năm 2020 Phạm Văn Ng thuê anh Võ Hoàng Tr chở từ đập Ba Hồng thuộc xã G, huyện H, tỉnh D đến xã E, thành phố C với giá 150.000đ. Sau khi đến nơi Ng kêu anh Tr ghé vào quán cà phê Cát Phượng tại xã E, thành phố C để uống cà phê, tại đây Ng hỏi mượn xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1 – 1571 của anh Tr nói đi lại nhà người thân để lấy tiền trả tiền xe cho anh Tr thì anh Tr đồng ý. Khi lấy được xe Ng chạy đến tỉnh F, sau đó Ng mở cốp xe thì thấy bên trong có 01 giấy chứng minh nhân dân tên Võ Hoàng Tr, 01 giấy chứng nhận đăng ký xe 94P1 – 1571, 01 điện thoại Nokia màu trắng đen và 150.000đ tiền Việt Nam. Lúc này Ng lấy điện thoại và 150.000đ còn lại giấy tờ thì ném bỏ. Đến ngày 17/6/2020 Ngộ chạy xe đến thành phố M, tỉnh N bán cho một người đàn ông không rõ họ và tên với giá 4.000.000đ và tiêu xài cá nhân hết.

Tại kết luận định giá tài sản số 71/KL-HĐĐG ngày 23/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Cà Mau kết luận: tính vào thời điểm tháng 6/2020 :

- 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS màu xám đen biển số xe 94P1 – 1571 đã qua sử dụng còn lại 75% = 6.750.000đ.

- 01 điện thoại di động hiệu Nokia đã qua sử dụng, giá trị còn lại 90% = 270.000đ.

Tổng cộng : 7.020.000đ.

Tại bản Cáo trạng số: 207/CT-VKS, ngày 16 tháng 11 năm 2021, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau đã truy tố bị cáo Phạm Văn Ng về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản ” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử :

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm h,i, s khoản 1 Điều 51Bộ luật Hình sự;

Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự.

Tuyên bố Phạm Văn Ng phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Xử phạt: Phạm Văn Ng từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về vật chứng : không có.

- Về trách nhiệm dân sự : buộc bị cáo bồi thường cho anh Triều số tiền 7.170.000đ.

Đối với người đàn ông ở M, tỉnh N mua xe mô tô 94P1 – 1571 của Ng hiện Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau chưa làm việc được nên tiếp tục giao Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau xác minh khi có căn cứ xử lý sau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Ng khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 18 giờ ngày 16/6/2020 Phạm Văn Ng đã có hành vi gian dối chiếm đoạt của anh Võ Hoàng Tr 01 xe mô tô hiệu Sirius biển số 94P1 – 1571; 01 điện thoại Nokia màu trắng đen và 150.000đ tiền Việt Nam , với tổng giá trị là 7.170.000đ. Hành vi trên bị cáo đã phạm vào tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Do đó cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cà Mau truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát thành phố Cà Mau, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến, khiếu nại gì nên tất cả đều thực hiện đúng quy định.

[3]Đánh giá tính chất vụ án là nguy hiểm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật và thực hiện với lỗi cố ý, làm mất trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần xử lý nghiêm.

[4]Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi phạm tội của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự .

[5]Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự : bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6]Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo: Quá trình điều tra, cũng như tại phiên Tòa bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thiệt hại không lớn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h,i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình Sự. Xét về tính chất phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo lợi dụng sự tin tưởng của người khác để thực hiện hành vi phạm tội mong muốn cho hậu quả xảy ra, làm mất an ninh trật tự trị an tại địa phương. Mặt khác, sau khi phạm tội bị cáo tiếp tục đến huyện Củ Chi – Thành Phố Hồ Chí Minh thực hiện hành vi “Trộm cắp tài sản” và bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 01 năm 06 tháng tù, cho nên khi lượng hình cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc để răng đe, phòng ngừa chung và giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội. Đồng thời khi quyết định hình phạt cần tổng hợp hình phạt của hai bản án đối với các bị cáo.

Đối với người đàn ông ở thành phố M, tỉnh N mua xe mô tô 94P1 – 1571 của Ngộ hiện Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau chưa làm việc được nên Viện kiểm sát thành phố Cà Mau tách ra tiếp tục giao Cơ quan điều tra Công an thành phố Cà Mau xác minh, làm rõ khi có căn cứ xử lý sau là phù hợp.

[7]Về vật chứng : không có nên không đặt ra việc xử lý.

[8]Về trách nhiệm dân sự : anh Tr yêu cầu bị cáo bồi thường giá trị chiếc xe và chi phí đi làm các giấy tờ bị mất với tổng số tiền là 14.000.000đ. Tại phiên tòa bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại, xét thất đây là sự tự nguyện của bị cáo nên chấp nhận.

[9]Về án phí hình sự và dân sự bị cáo phải chịu theo quy định .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm h, i, s khoản 1 Điều 51 ; Điều 56 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 589 Bộ luật Dân sựĐiều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Ng phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” .

- Xử phạt : Phạm Văn Ng 01 năm tù. Tổng hợp hình phạt với bản án số: 164/2021/HS-ST, ngày 03/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, thành Phố Hồ Chí Minh. Bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 02 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày tuyên án ( ngày 21/3/2022 ), được trừ thời gian chấp hành án từ ngày 01/7/2021 đến ngày 20/3/2022.

Ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo Phạm Văn Ng bồi thường cho anh Võ Hoàng Tr số tiền 14.000.000đ.

Kể từ ngày anh Võ Hoàng Tr có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị cáo Phạm Văn Ng không thi hành khoản tiền nêu trên thì còn phải chịu thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo phải chịu 200.000đ; án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch bị cáo phải chịu 700.000đ ( tất cả chưa nộp ).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điêù 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

333
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 43/2022/HS-ST

Số hiệu:43/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;