Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 41/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HAI BÀ TRƯNG - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 41/2022/HS-ST NGÀY 25/02/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Hôm nay, ngày 25 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Quận H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số:10 /2022/HSST ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 02 năm 2022:

1. Tạ Tuấn T - Sinh năm: 1990; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: 11 ngách 133/8 H, phường Q, quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 07/12; Con ông: Tạ Mạnh T (Đã chết); Con bà: Nguyễn Thị L; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai;

- Nhân thân:

+ Ngày 21/7/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù giam về Tội gây rối trật tự công cộng (Đã xóa án tích);

+ Ngày 29/8/2016, Tòa án nhân dân quận H xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (Đã xóa án tích).

- Tiền án, tiền sự: 01 tiền sự + Ngày 09/4/2021, Công an quận H xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác (chưa hết thời hiệu);

Danh chỉ bản số 489 lập ngày 15/10/2021 do Công an quận H cung cấp. Bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 07/10/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Minh H - Sinh năm: 1997; Hộ khẩu thường trú: Số 103 C, phường C, quận H, Hà Nội; Nơi ở: Số 246 D, phường V, quận H, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa:7/12; Con ông: Nguyễn Văn B; Con bà: Nguyễn Thị Lan A; Gia đình có 02 chị em bị cáo là con thứ nhất. Có 04 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2022.

Tiền án, tiền sự: 01 tiền sự - Ngày 29/9/2021, Phòng PC04 – CATP Hà Nội xử phạt vi hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma Túy (Chưa hết thời hiệu).

Danh chỉ bản số 592 lập ngày 16/12/2021 do Công an quận H cung cấp. Hiện bị cáo đang bị áp dụng lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Vũ Hoài N - Sinh năm: 1993; Hộ khẩu thường trú: Số 59 Tổ 13, phường Th, quận H, Hà Nội; Nơi ở: 35 ngõ 203 K, phường Th, Quận H, Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa:10/12; Con ông: Vũ Ngọc H; Con bà: Trương Thị Kim L(đã chết); Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; Có vợ: Bùi Thị Minh Th, bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2017, con nhỏ sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: 01 Tiền án.

- Ngày 17/01/2020, Tòa án nhân dân quận N xử phạt 10 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản (Chưa xóa án tích).

Danh chỉ bản số 492 lập ngày 15/10/2021 do Công an quận H cung cấp. Bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp ngày 07/10/2021. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội.

* Bị hại: Anh Nguyễn Minh Q– Sinh năm: 1997 Trú tại: 30 k ngõ 190 L, phường Đ,Quận H, Hà Nội.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Anh Nguyễn Duy H – Sinh năm 1984 Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

(Có mặt tại phiên tòa) Trú tại: số 18 ngách 20 ngõ 159 H, phường Q, Quận H, Hà Nội (Vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Để có tiền tiêu sài cá nhân, Tạ Tuấn T nảy sinh ý định làm giả giao dịch chuyển tiền ngân hàng để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 18/9/2021, Tạ Tuấn T sử dụng tài khoản facebook “Ph H” do một người chị họ cho T để vào nhóm Mua bán điện thoại cũ trên facebook, tại đây T thấy có nick Facebook “H A” do anh Nguyễn Minh Q sử dụng và đăng bài với nội dung: “Chạy view tiktok xong nên thanh lý đống samsung S7, ai cần inb mình nhé, bán từ 4 máy trở lên. Hiện tại còn 14 máy, giá 1.2 triệu/máy”. T nhắn tin liên hệ với anh Q thông qua facebook “H A” hỏi mua điện thoại để phát cho học sinh nhà có hoàn cảnh khó khăn để học online, số lượng 21 chiếc điện thoại gồm 14 điện thoại Samsung S7 và 7 điện thoại Iphone 6. Anh Q đồng ý và thỏa thuận bán cho T 21 chiếc điện thoại trên với giá 16.500.000đ, hẹn giao hàng tại đầu ngõ 190 Lò Đúc, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội.

Khoảng 9 giờ ngày 19/9/2021, T nói với Q là do bản thân bận việc nên nhờ đứa em qua lấy điện thoại. Khoảng 13 giờ ngày 19/9/2021, T đến phòng trọ của Nguyễn Minh H, hiện đang sống chung với Vũ Hoài N tại địa chỉ số 246 D, quận H, TP Hà Nội. T bảo H qua ngõ 190 Lò Đúc - Hà Nội để lấy lô điện thoại cho T, nếu người bán hỏi thì bảo là em của Ph đến lấy hộ điện thoại. T đưa cho H số tiền 3.000.000 đồng và dặn khi H gặp người bán thì đưa trước 3.000.000 đồng để làm tin, còn đâu thì xin số tài khoản để T chuyển khoản. H đồng ý nhận lời đi thì N bảo với T để N đi nhận điện thoại nhưng T không đồng ý. T bảo pH con gái đi cho tin tưởng, mới lấy được điện thoại về. Sau đó, H đi lên khu vực ngõ 190 Lò Đúc, phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội để nhận điện thoại cho T. Trong lúc H đi thì Vũ Hoài N đang ở trong phòng trọ hỏi T: “Tiền đâu mà mua điện thoại” thì T trả lời “Tôi làm lệnh chuyển khoản giả” rồi T đi về.

Khoảng 14h40p ngày 19/9/2021, H thông báo cho T biết H đã đến ngõ 190 Lò Đúc thì T nhắn tin cho Q nói là có em gái đến lấy hộ điện thoại, đồng thời H sử dụng số điện thoại 0924507476 gọi vào số điện thoại 0818011234 của Q giới thiệu mình là em gái của “Ph” đến lấy điện thoại cho H. Sau đó, anh Q đi bộ ra đầu ngõ 190 Lò Đúc gặp H và đưa Ti hàng màu xanh có 21 chiếc điện thoại di động (gồm 14 điện thoại Samsung Galaxy S7 và 7 điện thoại di động Iphone 6) cho H xem, H nói đưa cho anh Q 3.000.000 đồng tiền mặt, số tiền 13.500.000 đồng còn lại chị H sẽ chuyển vào tài khoản của anh Q. Q cho H thông tin số tài khoản 19036736368019 mang tên Nguyễn Minh Q, mở tại ngân hàng Techcombank, H đã chuyển thông tin sang cho T. T lên mạng xã hội nhắn tin cho người nhận chỉnh sửa ảnh có nick là “Th” (không xác định được nhân thân, lai lịch) để chỉnh sửa làm giả hình ảnh giao dịch chuyển tiền thành công với nội dung chuyển khoản 16.500.000đ vào số tài khoản mang tên Nguyễn Minh Q, mở tại ngân hàng Techcombank với nội dung: “Mua may cho hs”. Sau khi nhận được 02 hình ảnh làm giả giao dịch chuyển tiền thành công, T chuyển 02 hình ảnh này vào facebook của H là “G” để H đưa cho Q xem. Lúc đó, điện thoại của H bị lỗi màn hình nên H đã chuyển hình ảnh giao dịch chuyển tiền thành công số tiền 16.500.000đ (đã được làm giả) sang điện thoại anh Q. Chờ một lúc lâu mà không nhận được tin nhắn của ngân hàng thông báo về việc đã nhận được số tiền trên nên anh Q yêu cầu H gọi cho facebook “Ph” nhưng H không gọi được. H mượn máy điện thoại của anh Q gọi vào số điện thoại của N là 0799990901 và nói “Gọi cho H hỏi xem tiền chuyển được chưa mà bên này chưa nhận được tiền”, N trả lời “ H nào, tiền gì” thì H không nói gì. N nói nếu chưa nhận được tiền thì trả máy cho người ta. Sau đó, H chuyển điện thoại cho anh Q để nói chuyện với N, N bảo “Em để lại chứng minh thư nhân dân cho anh, em cũng là em của Ph, nếu trong ngày anh chưa nhận được tiền thì anh tìm em qua chứng minh thư này”. Sau đó, N gửi hình ảnh căn cước công dân mang tên Vũ Hoài N cho Q qua ứng dụng Zalo và nhắn: “Có ntn e chịu trách nhiệm”. Do vậy, anh Q đã giao cho H 21 chiếc điện thoại trên.

Do hình ảnh chuyển tiền thành công ghi số tiền 16.500.000 đồng nên H không đưa số tiền 3.000.000 đồng cho anh Q. H cầm 3.000.000 đồng cùng 21 chiếc điện thoại di động về phòng trọ. H cho N 1.000.000 đồng tiền hưởng lợi, còn 2.000.000 đồng H tiêu sài cá nhân hết. Đến khoảng 17h30p ngày 19/9/2021, H báo cho T đã lấy được điện thoại, T hẹn H mang máy điện thoại qua đầu ngõ Quỳnh, phường Th, quận H, Tp. Hà Nội. Sau đó, H bảo N mang điện thoại cho T, T nhận 21 điện thoại trên tại khu vực nhà nghỉ Ngân Hà, Ngõ Quỳnh, phường Th, quận H, thành phố Hà Nội. Sau khi nhận điện thoại, T chuyển cho H số tiền 3.000.000 đồng qua tài khoản ngân hàng và chuyển cho N số tiền 1.000.000 đồng tiền công qua tài khoản ví momo. Số tiền thu được từ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản T, H, N đã sử dụng tiêu sài cá nhân hết.

Ngày 20/9/2021, anh Nguyễn Minh Q vẫn chưa nhận được tiền chuyển vào tài khoản, T, N, H đã chặn số điện thoại anh Q nên không liên lạc được. Vì vậy, anh Q đã đến công an phường Đ, quận H, thành phố Hà Nội để trình báo. Anh Q đề nghị xử lý Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N theo quy định pháp luật. Về yêu cầu dân sự, anh Nguyễn Minh Q trình bày: đối với 06 chiếc điện thoại cơ quan công an đã thu hồi, yêu cầu được trả lại số điện thoại trên. Đối với 15 chiếc điện thoại cơ quan điều chưa thu hồi được, yêu cầu T, H, N bồi thường tổng số tiền là 10.500.000 đồng.

Cơ quan CSĐT – Công an quận H ra Yêu cầu định giá tài sản đối với 21 chiếc điện thoại bị chiếm đoạt.

Tại bản kết luận định giá số 182 ngày 28/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự quận H kết luận: 06 điện thoại Iphone 6 thu hồi được có giá trị là 6.000.000đ (sáu triệu đồng). 15 điện thoại di động (gồm 14 chiếc Samsung S7 và 01 chiếc Iphone 6) chưa thu hồi được nên không đủ cơ sở để tiến hành định giá.

Tại cơ quan điều tra, Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N khai nhận hành vi phạm tội như nội dung đã nêu ở trên. Tạ Tuấn T khai việc lừa đảo chiếm đoạt 21 chiếc điện thoại của anh Q là do T lên kế hoạch và chuẩn bị từ trước, đến trưa ngày 19/9/2021, T mới xuống phòng trọ của H, N để bảo H đi lấy điện thoại. T không bàn bạc với N về việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại phòng trọ của H vào trưa ngày 19/9/2021.

Sau khi lấy được 21 chiếc điện thoại của anh Q, T đã bán lại cho khách mua, cụ thể như sau:

- T bán cho Nguyễn Duy H (sinh năm 1984, trú tại số 18 ngách 20 ngõ 159 H – p. Q – q.H – Hà Nội) 06 điện thoại Iphone với giá 3.200.000 đồng.

- T bán cho một người đàn ông không quen biết trên ứng dụng Chợ tốt 09 điện thoại Samsung S7 với giá 3.700.000 đồng.

- T bán cho Trần Hồng H (địa chỉ số 4 ngách 36 ngõ 1277 G – H – Hà Nội) 03 điện thoại Samsung S7 với giá 600.000 đồng.

- T bán cho T(chưa xác định nhân thân, lai lịch) - bạn của H 01 điện thoại Iphone và 01 điện thoại SamsungS7 với giá 1.400.000 đồng.

- Còn 01 chiếc điện thoại Samsung S7 T trao đổi lấy 01 chiếc máy tính bảng của một người không quen biết trên ứng dụng Chợ tốt. Sau đó chiếc máy tính bảng hỏng nên T đã vứt đi.

Đối với Nguyễn Duy H: quá trình điều tra xác định H không biết nguồn gốc của 06 chiếc điện thoại mà T bán cho H, không biết việc T lừa đảo để chiếm đoạt số điện thoại trên. H đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan điều tra 06 điện thoại Iphone 6 màu xám đã mua của T vào ngày 23/09/2021. H không có yêu cầu đề nghị gì về số tiền đã trả cho T để mua điện thoại. Do vậy, không có cơ sở xử lý H.

Đối với 09 chiếc điện thoại Samsung S7, T khai đã bán cho khách mua trên ứng dụng Chợ tốt. Do không xác định được nhân thân, lai lịch và địa chỉ cụ thể của những người mua hàng trên ứng dụng Chợ tốt nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ.

Đối với Trần Hồng H: H khai có mua của T 03 máy điện thoại Sam sung tuy nhiên không nhớ đặc điểm vì sau khi mua đã bán cho khách trên mạng qua ứng dụng Chợ tốt. H không nhớ rõ bán cho ai. H không biết việc T bán 2 chiếc điện thoại cho Toàn. H không biết nguồn gốc máy điện thoại do T bán từ đâu nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác định H có liên quan đến hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Đối với người đàn ông tên T là bạn của H: quá trình điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch và địa chỉ cụ thể T nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, làm rõ.

Đối với 01 điện thoại Iphone 6s plus màu vàng thu giữ tại nhà T khi khám xét khẩn cấp: T khai nhận dùng để đăng nhập facebook “Ph” để thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Q.

Đối với 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy S8 màu đen thu giữ của Nguyễn Minh H: H khai dùng để trao đổi nói chuyện với Q và T.

Đối với thẻ căn cước công dân mang tên Vũ Hoài N và chiếc điện thoại N sử dụng để trao đổi với Q: N khai đã làm mất nên cơ quan điều tra không thu được chiếc điện thoại và thẻ căn cước trên.

Đối với người có nick “Th”: quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên cơ quan điều tra không có căn xứ xác minh, xử lý.

Đối với 15 chiếc điện thoại mà T đã bán cho cho khách: do chưa thu hồi được nên ngày 04 tháng 01 năm 2022, cơ quan CSĐT – CAQ H đã ra quyết định tách tài liệu liên quan đến 15 chiếc điện thoại di động trên để tiếp tục điều tra làm rõ sau.

Về yêu cầu dân sự, anh Nguyễn Minh Q trình bày: đối với 06 chiếc điện thoại cơ quan công an đã thu hồi, yêu cầu được trả lại số điện thoại trên. Đối với 15 chiếc điện thoại cơ quan điều chưa thu hồi được, yêu cầu T, H, N bồi thường tổng số tiền là 10.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số: 14/CT/VKS-HS ngày 25 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân Quận H các bị cáo Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N bị truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan công an, công nhận nội dung bản cáo trạng truy tố các bị cáo là đúng và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

-Người bị hại anh Nguyễn Minh Q giữ nguyên ý kiến tại cơ quan điều tra và đề nghị các bị cáo pH liên đới bồi thường thiệt hại số tiền 10.500.000 đồng cho anh. Ngoài ra, anh Q không có yêu cầu gì khác.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận H giữ nguyên quan điểm truy tố đối với Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N như tội danh và điều luật đã viện dẫn tại bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất nguy hiểm do hành vi phạm tội của các bị cáo gây ra, đánh giá mức độ phạm tội, xem xét nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ đã đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Tạ Tuấn T với mức án từ 18 tháng đến 24 tháng tù; không áp dụng hình phạt tiền do bị cáo hoàn cảnh khó khăn, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s, n khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Minh H với mức án từ 14 tháng đến 18 tháng tù; không áp dụng hình phạt tiền do bị cáo hoàn cảnh khó khăn, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định.

+ Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Vũ Hoài N với mức án từ 16 tháng đến 22 tháng tù; không áp dụng hình phạt tiền do bị cáo hoàn cảnh khó khăn, không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di dộng kiểu dáng Iphone 6s plus màu vàng thu giữ của bị cáo T vì liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Samsung Galaxy S8 màu đen thu giữ của bị cáo H vì liên quan đến hành vi phạm tội.

- Trả lại anh Nguyễn Minh Q 06 chiếc điện thoại Iphone 6 màu xám.

- Đối với số tiền 3.000.000 đồng T đưa cho H và dặn khi H gặp anh Q thì đưa cho anh Q để làm tin. Tuy nhiên, H không đưa cho anh Q và cũng không trả lại cho T. H cho N 1.000.000 đồng, còn 2.000.000 đồng H tiêu sài cá nhân hết. Đề nghị truy thu số tiền 2.000.000 đồng của H; truy thu số tiền 1.000.000 đồng của N để sung quỹ.

Về trách nhiệm dân sự:

- Tổng số tiền hưởng lợi của T, N, H khi mua 21 chiếc điện thoại của anh Q là 16.500.000 đồng. 06 chiếc điện thoại Iphone 6 thu hồi được theo định giá là 6.000.000 đồng. Anh Q yêu cầu Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N bồi thường số tiền 10.500.000 đồng. Áp dụng Điều 48 – Bộ Luật Hình Sự, Điều 587 của Bộ luật Dân sự 2015, đề nghị Tòa án tuyên buộc các bị cáo Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N liên đới bồi thường thiệt hại số tiền 10.500.000 đồng cho anh Nguyễn Minh Q - Đối với Nguyễn Duy H: T bán cho Nguyễn Duy H 06 điện thoại Iphone với giá 3.200.000 đồng, H không có yêu cầu dân sự liên quan đến số tiền 3.200.000 đồng hay đề nghị gì khác nên không xem xét .

Bị cáo Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về tố tụng: Cơ quan điều tra Công an quận H, thành phố Hà Nội, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà là phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, những người làm chứng, phù hợp các vật chứng đã thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Vì vậy có đủ cơ sở kết luận:

Để có tiền tiêu sài cá nhân, Tạ Tuấn T đã sử dụng facebook tên là “Ph” hỏi mua 21 chiếc điện thoại của anh Nguyễn Minh Q. Ngày 19/09/2021, Tạ Tuấn T nhờ Nguyễn Minh H đóng giả là em gái của facebook “Ph” để đi giao dịch với Nguyễn Minh Q. T chuyển cho H hình ảnh giả của giao dịch chuyển tiền thành công số tiền 16.500.000 đồng vào tài khoản của anh Q để H cho anh Q xem. Vũ Hoài N biết T và H lừa đảo nhưng vẫn giúp sức bằng cách chụp ảnh căn cước công dân của N gửi cho anh Q để tạo lòng tin nhằm chiếm đoạt 21 chiếc điện thoại di động các loại. Hiện Cơ quan điều tra đã thu hồi được 06 chiếc điện thoại Iphone trị giá 6.000.000 đồng, còn 15 chiếc điện thoại chưa thu hồi được nên ngày 04/01/2022, cơ quan CSĐT – CAQ H đã ra quyết định tách tài liệu liên quan đến 15 chiếc điện thoại di động trên để tiếp tục điều tra làm rõ sau.

Về dân sự, đối với 06 chiếc điện thoại cơ quan công an đã thu hồi, anh Nguyễn Minh Q yêu cầu được trả lại số điện thoại trên. Đối với 15 chiếc điện thoại cơ quan điều chưa thu hồi được, yêu cầu T, H, N bồi thường tổng số tiền là 10.500.000 đồng.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 174 Bộ luật hình sự 2015 quy định “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.” Do đó Viện kiểm sát nhân dân quận H truy tố các bị cáo Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Các bị cáo đã có hành vi dùng thủ đoạn gian dối đưa ra thông tin giả, không đúng với sự thật để làm cho người bị lừa dối tin đó là thật và giao tài sản cho người phạm tội nhằm mục đích để chiếm đoạt tài sản của người khác. Cụ thể xét vai trò của các bị cáo trong vụ án:

Bị cáo Tạ Tuấn T là người có vai trò chủ mưu cầm đầu trong việc Lừa đảo chiếm đoạt 21 chiếc điện thoại của anh Nguyễn Minh Q.

Đối với bị cáo Nguyễn Minh H: Mặc dù H không pH là chủ tài khoản facebook Ph nhưng H vẫn đồng ý nhận lời đi nhận 21 chiếc điện thoại cho T. Dưới sự hướng dẫn của T, H tự nhận mình là em của facebook Ph, đồng thời khi biết T gửi hình ảnh giao dịch chuyển tiền thành công là giả nhưng H vẫn gửi cho anh Q hình ảnh chuyển tiền thành công của T với mục đích để anh Q tin tưởng giao 21 chiếc điện thoại cho H. Hành vi của H đồng phạm giúp sức với Tạ Tuấn T trong việc Lừa đảo chiếm đoạt 21 chiếc điện thoại của anh Nguyễn Minh Q.

Đối với bị cáo Vũ Hoài N: Mặc dù N không được T bàn bạc nhưng N biết T mạo danh chủ tài khoản facebook Ph và làm giả hình ảnh giao dịch chuyển tiền thành công để lừa đảo chiếm đoạt 21 chiếc điện thoại, sau đó N vẫn tự nhận mình là em của Ph, đồng thời cung cấp hình ảnh căn cước công dân của N cho Q qua Zalo với mục đích để Q tin tưởng giao 21 chiếc điện thoại cho H. Sau khi H đưa máy điện thoại về phòng thì N đã mang số máy điện thoại trên cho T tại nhà nghỉ Ngân Hà – Ngõ Quỳnh – Th – Hà Nội. Hành vi của Vũ Hoài N đồng phạm với vai trò giúp sức cho Tạ Tuấn T trong việc Lừa đảo chiếm đoạt 21 chiếc điện thoại của anh Nguyễn Minh Q.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự coi thường pháp luật xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của cá nhân. Do đó, cần áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung, bảo đảm trật tự kỷ cương xã hội.

[3]. Xét nhân thân bị cáo Tạ Tuấn T có nhân thân xấu: Ngày 21/7/2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 18 tháng tù giam về Tội gây rối trật tự công cộng (Đã xóa án tích); Ngày 29/8/2016, Tòa án nhân dân quận H xử phạt 12 tháng tù giam về tội Trộm cắp tài sản (Đã xóa án tích); Ngày 09/4/2021, Công an quận H xử phạt hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác (Chưa hết thời hiệu). Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét nhân thân bị cáo Nguyễn Minh H có 01 tiền sự bị xử phạt về hành vi sử dụng trái phép chất ma Ty (Chưa hết thời hiệu). Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, trong hồ sơ thể hiện bị cáo phạm tội khi đang mang thai nên Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s, n khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xét nhân thân bị cáo Vũ Hoài N có 01 tiền án: Ngày 17/01/2020, Tòa án nhân dân quận N Từ Liêm xử phạt 10 tháng tù về tội Cố ý làm hư hỏng tài sản (Chưa xóa án tích). Lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tuy nhiên xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng”. Tuy nhiên, xét các bị cáo Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N không có thu nhập ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác:

 Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di dộng kiểu dáng Iphone 6s plus màu vàng đã qua sử dụng, không rõ nguồn gốc chất lượng, số IMEI: 3532 8507 9645 214 thu giữ của bị cáo T vì liên quan đến hành vi phạm tội.

- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Samsung Galaxy S8 màu đen, màn hình bị vỡ góc, bị kẻ sọc nửa màn hình, mặt sau lưng bị vỡ, không rõ nguồn gốc chất lượng, số IMEI (khe 1): 3591 1608 8154 381; số IMEI (khe 2): 3591 1708 8154 389 thu giữ của bị cáo H vì liên quan đến hành vi phạm tội.

- Trả lại anh Nguyễn Minh Q 06 chiếc điện thoại gồm:

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3544 0406 1295 768; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3544 4506 7016 534; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3592 3406 4886 122; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3592 9706 6469 056; đã vỡ màn hình, máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 2593 0306 6775 235; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3544 2806 6823 878; đã vỡ màn hình, máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

 Về trách nhiệm bồi thường dân sự và các vấn đề khác:

+ Về trách nhiệm bồi thường dân sự:

Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 587 Bộ luật dân sự 2015 và Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:

- Buộc các bị cáo Tạ Tuấn T, Nguyễn Minh H, Vũ Hoài N pH liên đới bồi thường thiệt hại số tiền 10.500.000 (Mười triệu năm trăm nghìn) đồng cho người bị hại anh Nguyễn Minh Q theo tỉ lệ cụ thể như sau:

+ Bị cáo T được hưởng lợi số tiền 12.500.000 đồng (Mười hai triệu năm trăm nghìn) đồng từ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên pH bồi thường số tiền là: 7.954.800 (Bảy triệu chín trăm năm mươi tư nghìn tám trăm) đồng.

+ Bị cáo H được hưởng chia lợi nhuận số tiền 3.000.000 (Ba triệu) đồng từ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên pH bồi thường số tiền là: 1.908.900 (Một triệu chín trăm linh tám nghìn chín trăm) đồng.

+ Bị cáo N được hưởng chia lợi nhuận số tiền 1.000.000 (Một triệu) đồng từ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên pH bồi thường số tiền là: 636.300 (Sáu trăm ba mươi sáu nghìn ba trăm) đồng.

- Các vấn đề khác:

- Truy thu số tiền 2.000.000 (Hai triệu) đồng của bị cáo Nguyễn Minh H có được do bị cáo Tạ Tuấn T cho để đi giao dịch lừa đảo mua bán điện thoại với anh Nguyễn Minh Q.

- Truy thu số tiền 1.000.000 (Một triệu) của bị cáo Vũ Hoài N có được do bị cáo Nguyễn Minh H cho từ số tiền mà bị cáo Tạ Tuấn T đưa cho bị cáo H để đi giao dịch lừa đảo mua bán điện thoại với anh Nguyễn Minh Q.

- Đối với 15 chiếc điện thoại mà T đã bán cho cho khách: do chưa thu hồi được nên ngày 04 tháng 01 năm 2022, cơ quan CSĐT – CAQ H đã ra quyết định tách tài liệu liên quan đến 15 chiếc điện thoại di động trên để tiếp tục điều tra làm rõ sau nên không xem xét.

- Đối với thẻ căn cước công dân mang tên Vũ Hoài N và chiếc điện thoại bị cáo N sử dụng để trao đổi với anh Nguyễn Minh Q: bị cáo N khai đã làm mất nên cơ quan điều tra không thu được chiếc điện thoại và thẻ căn cước trên nên không xem xét.

- Đối với người có nick “Th”: quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, xử lý nên không xem xét.

[7]. Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo pH chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Từ các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố : Bị cáo Tạ Tuấn T phạm tội: "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Tạ Tuấn T 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 07/10/2021.

2. Tuyên bố : Bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội: "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s,n khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Minh H 14 (mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Tuyên bố : Bị cáo Vũ Hoài N phạm tội: "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo: Vũ Hoài N 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị giữ trong trường hợp khẩn cấp ngày 07/10/2021.

4.Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với các bị cáo.

5. Về xử lý vật chứng và các vấn đề khác :

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di dộng kiểu dáng Iphone 6s plus màu vàng đã qua sử dụng, không rõ nguồn gốc chất lượng, số IMEI: 3532 8507 9645 214 + Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Samsung Galaxy S8 màu đen, màn hình bị vỡ góc, bị kẻ sọc nửa màn hình, mặt sau lưng bị vỡ, không rõ nguồn gốc chất lượng, số IMEI (khe 1): 3591 1608 8154 381; số IMEI (khe 2): 3591 1708 8154 389 - Trả lại anh Nguyễn Minh Q 06 chiếc điện thoại gồm:

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3544 0406 1295 768; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3544 4506 7016 534; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3592 3406 4886 122; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3592 9706 6469 056; đã vỡ màn hình, máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 2593 0306 6775 235; máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

+ 01 (Một) chiếc điện thoại di động kiểu dáng Iphone 6 màu xám đã qua sử dụng không rõ nguồn gốc, chất lượng, số IMEI vỏ máy: 3544 2806 6823 878; đã vỡ màn hình, máy hỏng không lên nguồn, đã được niêm phong.

Các tang vật trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận H - Thành phố Hà Nội theo Biên bản giao nhận tang vật, vật chứng ngày 26 tháng 01 năm 2022 (TV: 118/22) giữa Công an quận H và Chi cục thi hành án dân sự quận H.

- Về các vấn đề khác:

+ Buộc bị cáo Nguyễn Minh H phải truy nộp số tiền thu lời bất chính 2.000.000 (Hai triệu) đồng.

+ Buộc bị cáo Vũ Hoài N phải truy nộp số tiền thu lời bất chính 1.000.000 (Một triệu) đồng.

- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 584, Điều 585, Điều 586, điều 587 Bộ luật dân sự 2015 và Khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:

+ Buộc bị cáo Tạ Tuấn T phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Nguyễn Minh Q số tiền là: 7.954.800 (Bảy triệu chín trăm năm mươi tư nghìn tám trăm) đồng.

+ Buộc bị cáo Nguyễn Minh H phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Nguyễn Minh Q số tiền là: 1.908.900 (Một triệu chín trăm linh tám nghìn chín trăm) đồng.

+ Buộc bị cáo Vũ Hoài N pH bồi thường thiệt hại về tài sản cho anh Nguyễn Minh Q số tiền là: 636.300 (Sáu trăm ba mươi sáu nghìn ba trăm) đồng.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, Điều 7, Điều 7a, Điều 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí : Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Tạ Tuấn T pH chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và pH chịu 397.740 (Ba trăm chín mươi bảy nghìn bảy trăm bốn mươi) đồng án phí dân sự sơ thẩm; buộc bị cáo Nguyễn Minh H pH chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và pH chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm; buộc bị cáo Vũ Hoài N pH chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và pH chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm;

5. Về quyền kháng cáo : Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

319
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 41/2022/HS-ST

Số hiệu:41/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;