TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 38/2021/HSST NGÀY 26/01/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 26 /01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 479/2020/TLST-HS ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 519/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với Bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Văn H, sinh năm: 19XX, Giới tính: Nam. HKTT: Số 68 đường 11, KP1, Phường Cát Lái, quận 2, thành phố Hồ Chí Minh. Nơi ở: Phòng 307 CT3A, Khu đô thị M, phường M, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; Nghề Nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông: Phạm Duy Ch và con bà: Nguyễn Thị Q; Có vợ: Nguyễn Thị Thu Th (Đã ly hôn); Có 02 con: Con lớn sinh năm 2005, con nhỏ sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 08/4/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.
* Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H: Bà Đinh Thị N, ông Phạm Việt A, Công ty luật trách nhiệm hữu hạn Trí Hùng và cộng sự, Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.
Bị hại:
Anh Nguyễn Quang T, sinh năm 1992. HKTT tại: Thôn NT, xã T, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang. Có mặt.
Người có quyền lợi liên quan:
1. Ông Nguyễn Quang C (Là bố anh T). HKTT tại: Thôn N, xã T, huyện Bắc Giang, tỉnh Hà Giang. Vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1959. Trú tại: Số 1 ngõ a phường P, quận H, thành phố Hà Nội (Là cậu của Nguyễn Văn H). Có mặt.
3. Chị Nguyễn Thị M ,sinh năm 1986 (Em gái bị cáo H). Có mặt.
Người làm chứng:
Bà Đậu Thị H, sinh năm 1982. Trú tại: Thôn T, xã TQ, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang (Là dì họ của anh Toàn). Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 11/9/2019, anh Nguyễn Quang gửi đơn và các tài liệu liên quan đến Cơ quan điều tra, Công an quận Nam Từ Liêm tố cáo bị cáo Nguyễn Văn H có hành vi lừa đảo chiếm đoạt của gia đình anh số tiền 700 triệu đồng thông qua việc nhận tiền để xin việc làm cho anh nhưng sau đó không thực hiện như cam kết mà chiếm đoạt số tiền đã nhận.
Khoảng tháng 10 năm 2015, anh Nguyễn Quang Toàn biết bị cáo Nguyễn Văn H thông qua bà Đậu Thị Hường (Là dì họ của anh Toàn). Bị cáo H biết anh Toàn mới tốt nghiệp đại học, có nhu cầu xin việc làm. Nên khoảng tháng 3/2016, bị cáo H đã giới thiệu với anh Toàn, bà Hường, ông Nguyễn Quang Chiến (Là bố anh Toàn) là bị cáo H đang công tác tại Thanh tra Chính phủ, đang làm quy trình lên tướng và có 2 con trai đang công tác tại Cục C45, C46 - Bộ Công an, có nhiều mối quan hệ có thể xin được cho anh Toàn vào làm việc tại Bộ Tư Lệnh Cảnh Vệ - Bộ Công an với chi phí khoảng từ 500.000.000 đồng - 700.000.000 đồng, nếu không xin được bị cáo H sẽ trả lại tiền, gia đình anh Toàn tin tưởng nên đã nhờ bị cáo H xin việc cho anh Toàn. Ngày 05/3/2016, ông Chiến, bà Hường và anh Toàn đến nhà bị cáo H tại Phòng 307 CT3A, khu đô thị Mễ Trì Thượng, phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội, ông Chiến đưa cho bị cáo H 300.000.000 đồng (Nhưng không viết giấy biên nhận) mục đích để cọc chỉ tiêu vào ngành công an theo yêu cầu của bị cáo H. Bị cáo H hẹn khoảng tháng 6/2016 sẽ có chỉ tiêu và tuyển dụng vào làm việc tại phòng tài chính kế toán tại Bộ Tư lệnh - Cảnh sát cơ động (Anh Toàn có ghi âm nội dung cuộc nói chuyện thể hiện việc giao nhận số tiền trên). Sau đó, bị cáo H tiếp tục thông báo với bà Hường đã có chỉ tiêu nên cần thêm 300.000.000 đồng nữa để xin xét duyệt. Ngày 14/11/2016, ông Chiến, bà Hường và anh Toàn đến nhà bị cáo H, ông Chiến đưa tiếp cho bị cáo H số tiền 300.000.000 đồng. Khoảng 1 tuần sau, thông qua bà Hường, bị cáo H yêu cầu gia đình ông Chiến đưa thêm 100.000.000 đồng để xin được cho Toàn vào vị trí tốt. Ngày 24/11/2016, gia đình ông Chiến đã nhờ bà Hường chuyển khoản 100.000.000 đồng vào tài khoản số 32526869 của bị cáo Nguyễn Văn H mở tại Ngân hàng ACB (Mấy ngày sau anh Toàn đã trả cho bà Hường số tiền 100 triệu đồng). Tổng số tiền bị cáo H nhận của gia đình ông Chiến là 700.000.000 đồng, bị cáo H hứa sau khoảng 2-3 tháng anh Toàn sẽ được đi làm. Sau khi nhận tiền bị cáo H không làm gì để xin việc cho anh Toàn mà đã sử dụng chi tiêu hết số tiền đã nhận. Hết thời hạn cam kết, anh Toàn không được đi làm nên ông Chiến, anh Toàn đã nhiều lần liên lạc yêu cầu bị cáo H trả lại tiền nhưng bị cáo H đưa ra nhiều lý do trì hoãn không trả tiền và lảng tránh không gặp, nên anh Toàn đã làm đơn tố giác bị cáo H gửi Công an quận Nam Từ Liêm. Sau khi biết anh Toàn viết đơn tố giác bị cáo H gửi cơ quan Công an thì ngày 01/10/2019, bị cáo H đến nhà anh Toàn và đã viết giấy với nội dung ông Chiến đặt cọc cho H 700.000.000 đồng để mua mảnh đất của bị cáo H tại 55 ngõ 169 đường Quang Tiến, phường Đại Mỗ, quận Nam Từ Liên, thành phố Hà Nội nhưng gia đình ông Chiến không đồng ý ký vào tờ giấy này, bị cáo H đã lấy lại tờ giấy này, hiện không thu lại được.
Sau khi bị cáo H bị bắt tạm giam, ngày 06/5/2020, ông Nguyễn Văn Tuất là cậu của Nguyễn Văn H đã giao nộp 185.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho bị cáo H. Cơ quan điều tra đã trao trả số tiền trên cho anh Toàn, số tiền bị cáo H còn chiếm đoạt 515.000.000 đồng.
Tại Bản kết luận giám định số: 7712 ngày 12 tháng 3 năm 2020, của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an kết luận:
“- Tiếng nói của người nam tự xưng “Tao”, “Em” và được gọi là “Chú”, “Anh” trong các file mẫu cần giám định (Ký hiệu “H” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định) và tiếng nói của bị cáo Nguyễn Văn H trong mẫu so sánh là của cùng một người;
- Tiếng nói của người nam tự xưng “Cháu” và được gọi là “mày”, “Cháu” trong các file mẫu cần giám định (Ký hiệu “Toàn” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định) và tiếng nói của Nguyễn Quang Toàn trong mẫu so sánh là của cùng một người;
- Tiếng nói của người nam tự xưng “Tôi” và được gọi là “Anh” trong mẫu cần giám định - file: giao tiền lần 1.aa (Ký hiệu “Chiến” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định) và tiếng nói của ông Nguyễn Quang Chiến trong mẫu so sánh là của cùng một người;
- Tiếng nói của người nữ tự xưng “Em” và được gọi là “Em” và “dì” trong mẫu cần giám định - file: giao tiền lần 1.aa (Ký hiệu “Hường” trong Bản dịch nội dung ghi âm mẫu cần giám định) và tiếng nói của Đậu Thị Hường trong mẫu so sánh là của cùng một người”. Không phát hiện thấy dấu vết cắt ghép, chỉnh sửa nội dung trong file mẫu cần giám định.
Các nội dung thể hiện việc bị cáo H trao đổi cùng ông Chiến và anh Toàn:
- Ông Chiến nói:“Nay anh mang một ít gửi tạm trước, chú cầm tạm cho anh,… đây có ba trăm trước ..”; H: Vâng! - Toàn“Rồi cũng lâu rồi mà bố cháu bảo cháu nói lại với chú trước khi về, mà cái chỗ mà chạy vào Công an ấy thì bây giờ bố cháu muốn là, hỏi xem là có khả năng đòi lại được hay không”. “ ..Có phải ông cầm tiền của cháu á. Thế bảy trăm triệu đấy thì chú đưa cho những ai”… H: “Mày hỏi làm đéo gì cái việc đấy, việc đấy hỏi làm gì”,…“Tao biết, tóm lại coi như là vấn đề đấy tao chịu trách nhiệm với bố mày chứ nói chuyện gì việc của tao….” * Xác minh tại Cục điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu - Bộ Công an: Qua kiểm tra thông tin và hồ sơ cán bộ, hiện Cục không có cán bộ nào có bố tên là bị cáo Nguyễn Văn H (Có lý lịch như cơ quan điều tra yêu cầu).
* Xác minh tại Cục Cảnh sát hình sự - Bộ công an: Qua rà soát thông tin cán bộ, năm 2016 Cục cảnh sát hình sự không có cán bộ công tác tại đơn vị có bố tên là bị cáo Nguyễn Văn H (Có lý lịch như cơ quan điều tra yêu cầu).
* Xác minh tại Thanh tra Chính phủ: Sau khi ra soát hồ sơ, Thanh tra chính phủ không có cá nhân tên là bị cáo Nguyễn Văn H là cán bộ, công chức, viên chức, người lao động làm việc tại Thanh tra Chính phủ vào năm 2016.
* Xác minh tại Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động, Bộ Công an: Năm 2016, Bộ Tư Lệnh Cảnh sát cơ động không có cán bộ tên bị cáo Nguyễn Văn H và không có chỉ tiêu tuyển dụng người từ ngành ngoài vào công tác trong lực lượng Công an.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Nguyễn Văn H, anh Nguyễn Quang Toàn, ông Nguyễn Quang Chiến và bà Đậu Thị Hường khai như nội dung vụ án nêu trên.
* Về trách nhiệm dân sự: Ông Nguyễn Văn Tuất là cậu của Nguyễn Văn H đã giao nộp 185.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho bị cáo H. Cơ quan điều tra đã trao trả số tiền trên cho anh Toàn, số tiền bị cáo H còn chiếm đoạt 515.000.000 đồng.
Tại bản Cáo trạng số: 422 /CT-VKS HN-P3 ngày 10 /11/2020 Viện kiểm sát nhân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất của vụ án, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn H, đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Các điểm b, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H: Từ 10 đến 11 năm tù.
Bị cáo Nguyễn Văn H phải hoàn trả anh Toàn, số tiền đã chiếm đoạt theo quy định của pháp luật dân sự cho anh Nguyễn Quang Toàn số tiền bị chiếm đoạt còn lại là 465.000 000 đồng.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn H:
Đồng nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đã truy tố Bị cáo, nhưng đề nghị áp dụng hình phạt giảm nhẹ hơn mức án mà Viện kiểm sát đề nghị. Vì Bị hại có quan hệ từ trước với Bị cáo, cả Bị hại và bị cáo đều mong muốn được việc. Bị cáo cũng đưa tiền cho người khác, nhận thức pháp luật hạn chế, có nhân thân tốt, động viên gia đình khắc phục hậu quả và tại phiên tòa vẫn đồng ý tiếp tục khắc phục hậu quả, Bị cáo ra đầu thú, đang nuôi con nhỏ, bị bệnh. Bị hại xin giảm hình phạt theo các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự cho Bị cáo ở mức hình phạt thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi và tội danh của Bị cáo: Lời khai nhận của bị cáo Nguyễn Văn H tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận:
Khoảng tháng 3 năm 2016, bị cáo Nguyễn Văn H nói dối ông Nguyễn Quang Chiến và anh Nguyễn Quang Toàn là H đang công tác ở Thanh tra Chính phủ, quen biết nhiều cán bộ lãnh đạo có thể xin cho anh Nguyễn Quang Toàn vào làm việc tại Bộ Tư lệnh Cảnh vệ với chi phí khoảng từ 500.000.000 đến 700.000.000 đồng, anh Toàn đồng ý. Từ ngày 05/3/2016 đến ngày 24/11/2016, gia đình anh Toàn đã giao cho bị cáo H tổng số tiền là 700.000.000 đồng, bị cáo H cam kết trong thời hạn từ 2 đến 3 tháng sẽ xin được việc làm cho anh Toàn. Sau khi nhận tiền bị cáo H không làm gì để xin việc cho anh Toàn mà chiếm đoạt chi tiêu hết số tiền đã nhận là 700.000.000 đồng. Hiện bị cáo H mới trả cho gia đình anh Toàn 235.000.000 đồng, số tiền còn chiếm đoạt là 465.000.000 đồng. Anh Toàn đề nghị xử lý bị cáo H theo quy định của pháp luật và bồi cho gia đình anh Toàn số tiền còn chiếm đoạt.
Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn H đã phạm vào tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Điều 174. Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
………………..
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
...........................
Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H là nguy hiểm cho xã hội, bằng hành vi gian dối ngay từ đầu để chiếm đoạt tài sản của anh Toàn thông qua xin việc làm, làm mất trật tự tại địa phương, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, gây bức xúc cho dư luận. Bản thân Bị cáo là người có nhận thức pháp luật ở mức độ nhất định nhưng chưa có ý thức tu dưỡng nên đã phạm tội. Vì vậy cần phải có biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo Nguyễn Văn H.
Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với Bị cáo: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình của Bị cáo đã khắc phục 235 triệu đồng được trả lại cho Bị hại theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[2] Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự; Căn cứ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; Căn cứ nhân thân người phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù cách ly Bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới đủ tác dụng răn đe giáo dục bị cáo Nguyễn Văn H riêng và phòng ngừa tội phạm chung.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Tuất đã nộp số tiền 185.000.000 đồng, chị Minh nộp 50.000.000 đồng để khắc phục một phần hậu quả cho bị cáo Nguyễn Văn H. Nay ông Tuất, chị Minh không có ý kiến gì.
Trong vụ án này đối với bà Đậu Thị Hường là người giới thiệu gia đình ông Chiến gặp bị cáo Nguyễn Văn H nhưng không giúp bị cáo H lừa đảo chiếm đoạt tài sản của gia đình ông Chiến và không được hưởng lợi ích gì nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Nguyễn Văn H phải hoàn trả Anh Toàn, số tiền chiếm đoạt còn lại là 465.000.000 đồng.
Ông Tuất đã nộp 185.000.000 đồng, và chị Minh nộp tiếp 50.000.000 đồng. Hiện còn lại 465.000.000 đồng, để khắc phục một phần hậu quả cho bị cáo H, tại phiên tòa ông Tuất, chị Minh vẫn đồng ý không có thay đổi gì. Nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có khả năng về tài chính và phải chấp hành hình phạt tù. Nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với Bị cáo. [4] Về vật chứng vụ án: Các tài liệu liên quan đến việc phạm tội của Bị cáo được lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
[5] Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự và án phí Dân sự và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
[6] Các cơ quan tiến hành tố tụng của thành phố Hà Nội thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố. Kết luận điều tra của Công an thành phố Hà Nội, Quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội, áp dụng với Bị cáo là đúng, tương xứng với hành vi phạm tội của Bị cáo và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn H phạm tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Căn cứ vào điểm a khoản 4 Điều 174, các điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn H 10 (Mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 08/04/2020.
Về trách nhiệm dân sự:
Bị cáo Nguyễn Văn H còn phải hoàn trả: Nguyễn Quang Toàn là 465.000.000 đồng.
Sau khi án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo Nguyễn Văn H không thi hành khoản tiền trả anh Nguyễn Quang Toàn. Bị cáo Nguyễn Văn H còn phải chịu mức lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố đối với số tiền chậm thi hành án. “Trong trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo Điều 2 của Luật thi hành án dân sự người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7 và Điều 9 của Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.
Về xử lý vật chứng: Các tài liệu Cơ quan điều tra đã lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Nguyễn Văn H phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và 23 300 000 đồng tiền án phí Dân sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.
Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Nguyễn Văn H, Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 38/2021/HSST
Số hiệu: | 38/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về