TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 33/2022/HSST NGÀY 09/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương công khai xét xử vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 25/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 78/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:
- Phan Thanh Tr, sinh năm 1998, tại tỉnh Bến Tre; hộ khẩu thường trú: Ấp TH2, xã TT, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre. Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 09/12; nghề nghiệp: Công nhân; con ông Phan Văn S và bà Lê Thị Hồng L; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt khẩn cấp, bị tạm giữ từ ngày 02/11/2021 đến ngày 11/11/2021, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt.
- Nguyễn Khánh H, sinh năm 1995, tại tỉnh Hà Tĩnh; hộ khẩu thường trú: Xóm LS, xã KL, huyện KA, tỉnh Hà Tĩnh. Tạm trú: 18/22 khu phố TN1, phường DA, thành phố DA, tỉnh Bình Dương; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 09/12; nghề nghiệp: Công nhân, con ông Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị N; tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 01/11/2021 đến ngày 11/11/2021, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt.
- Đào Minh T, sinh năm 1990, tại tỉnh Thanh Hóa; hộ khẩu thường trú: Khu phố CX, thị trấn TB, huyện BTU, tỉnh Bình Dương. Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 09/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Đào Minh Lượng và bà Hoàng Thị T1 (đã chết). Tiền án: Không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ từ ngày 01/11/2021 đến ngày 11/11/2021, bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt.
Người bị hại: Công ty Trách nhiệm hữu hạn ĐT Người đại diện theo pháp luật: Ông Vũ Thạch K – chức vụ: Giám đốc (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp AS, xã AĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Công ty Cổ phần BP Logistics Người đại diện theo pháp luật: Ông Lưu Đào A – Chức vụ: Tổng Giám đốc (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ 8, khu phố 6, phường HT, thành phố TDM, tỉnh Bình Dương.
2. Ông Cổ Văn Vinh, sinh năm 1978 (vắng mặt) Địa chỉ: Khu phố 5, phường Chánh Phú Hòa, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phan Thanh Tr là nhân viên nhận hàng của Công ty Trách nhiệm hữu hạn ĐT (Công ty ĐT) chuyên sản xuất giấy thành phẩm, địa chỉ tại ấp AS, xã AĐ, thị xã BC, tỉnh Bình Dương. Công ty ĐT mua hàng nguyên liệu là các cuộn giấy xeo tại Công ty Trách nhiệm hữu hạn giấy NT (Công ty NT), địa chỉ tại khu phố BCĐ, phường KB, thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Quá trình nhận hàng, Trọng thấy Công ty ĐT không kiểm tra đơn hàng ký nhận và hàng thực tế vào kho, nên nảy sinh ý định lừa đảo bằng hình thức ký nhận khống hàng rồi chiếm đoạt đem bán lấy tiền tiêu xài.
Nguyễn Khánh H là tài xế lái xe thuê chở hàng của Công ty Cổ phần BP Logistics (Công ty BP), chuyên về vận tải, địa chỉ khu phố 1A, phường AP, thành phố TA, tỉnh Bình Dương. Công ty NT thuê Công ty BP vận chuyển giấy đã bán giao cho Công ty ĐT. Khi H giao giấy cho Công ty ĐT thì Tr là người ký nhận hàng cho H nên cả hai có số điện thoại và zalo của nhau.
Ngày 01/11/2021, H được Công ty BP giao xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R-004.78 đến Công ty NT nhận 36 cuộn giấy xeo nguyên liệu để giao cho Công ty ĐT. Khoảng 15 giờ cùng ngày, trên đường điểu khiển xe chở giấy đến Công ty NT thì H sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, gắn sim số 0365.642630 kích hoạt ứng dụng zalo nhắn tin qua zalo trên điện thoại Oppo Reno 6 gắn sim số 0974.305603 của Tr biết để chuẩn bị xuống hàng. Lúc này, Tr nhắn tin kêu H tìm chỗ bán 03 cuộn giấy xeo nguyên liệu để lấy tiền chia nhau tiêu xài và Tr sẽ ký đủ số lượng 36 cuộn giấy thì H đồng ý. Trên đường đi, Hà nhìn thấy tiệm phế liệu của chị Trương Thị H2 (sinh ngày 14/7/1992, nơi thường trú: khu phố CX, thị trấn TB, huyện PG, tỉnh Bình Dương) có để số điện thoại liên hệ nên H gọi điện thoại cho chị H2 để hỏi bán giấy, nhưng do không có nhu cầu mua nên chị H2 đã cho H số điện thoại của anh chồng mình là Đào Minh T để liên hệ. H gọi điện thoại vào số điện thoại 0818.939395 của T hỏi để bán giấy thì T đồng ý mua với giá 6.500 đồng/kg. H kêu sẽ liên lạc lại sau cho T rồi tiếp tục đến Công ty ĐT giao hàng. Do xe mà H điều khiển có tải trọng lớn không vào được bên trong Công ty ĐT, nên khi đến trước cổng Công ty ĐT thì H điều khiển xe đỗ phía ngoài để xe nâng chạy ra bốc nhập hàng. Sau khi Tr điều khiển xe nâng bốc dỡ 33 cuộn giấy xeo nguyên liệu xuống đưa vào nhà kho, 03 cuộn còn lại Tr kêu H chở đi bán. H nói cho Tr biết giá giấy mà T mua thì Tr đồng ý bán. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, H điều khiển xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R-004.78 chở theo 03 cuộn giấy đến đỗ cạnh đường NA3, thuộc khu phố 5 phường Chánh Phú Hòa, thị xã Bến Cát rồi điện thoại cho T đến. Khoảng 15 phút sau, T đến gặp H và nhìn thấy trên xe có 03 cuộn giấy xeo nguyên liệu còn mới, bao bì còn nguyên nên biết là tài sản do H chiếm đoạt được mà có. Tuy nhiên, do hám lợi nên T đồng ý mua và chuyển khoản cho H số tiền 21.500.000 đồng. Do thấy đường đông người qua lại, sợ bị phát hiện nên T kêu H điều khiển xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R-004.78 chở theo 03 cuộn giấy đi vào khu vực đường NF10, thuộc khu phố 5, phường Chánh Phú Hòa để giao hàng thì H đồng ý. Tại đây, Tú điện thoại thuê anh Cổ Văn V (sinh năm 1978, nơi thường trú: khu phố 5, phường CPH, thị xã BC, tỉnh Bình Dương) đến cẩu hàng xuống cho T. Anh V không biết đến cẩu hàng chiếm đoạt được mà có nên đồng ý và điều khiển xe tải có gắn trục cẩu biển số 61C-459.39 đến cẩu hàng. Khi anh V, T và H đang cẩu hàng qua xe anh V thì bị lực lượng Công an đồn Khu công nghiệp phát hiện nghi vấn, nên mời về trụ sở làm việc. Sau đó, vụ việc được chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát giải quyết theo thẩm quyền.
Vật chứng thu giữ:
- 01 xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R- 004.78; 01 xe tải có gắn trục cẩu biển số 61C-459.39;
- 01 cuộn giấy xeo khổ 160cm, khối lượng 1.206kg; 01 cuộn giấy xeo khổ 150cm, khối lượng 1.152kg; 01 cuộn giấy xeo khổ 140cm, khối lượng 1.017kg; 02 phiếu xuất kho của Công ty NT.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen, gắn sim số 0365.642630 của Nguyễn Khánh H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno 6 màu xanh gắn sim số 0974.305603 của Phan Thanh Tr, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh gắn sim số 0818.939395 của Đào Minh T.
- Số tiền 21.500.000 đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát, Phan Thanh Tr, Nguyễn Khánh H và Đào Minh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Theo Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Bến Cát, kết luận: 01 cuộn giấy xeo khổ 160cm, khối lượng 1.206kg trị giá 16.051.860 đồng; 01 cuộn giấy xeo khổ 150cm, khối lượng 1.152kg trị giá 15.459.840 đồng; 01 cuộn giấy xeo khổ 140cm, khối lượng 1.017kg trị giá 13.648.140 đồng. Tổng trị giá: 45.159.840 đồng.
Ngày 11/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát xử lý vật chứng, giao trả 01 xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R-004.78 cho anh Lê Phước Chính M (sinh năm 1984, nơi thường trú: khu phố 6, tổ 8, phường HT, thành phố TDM, tỉnh Bình Dương) là đại diện hợp pháp của Công ty Cổ phần BP Logistics; trả 01 xe tải có gắn trục cẩu biển số 61C-459.39 cho anh Cổ Văn V; trả 03 cuộn giấy xeo nguyên liệu cho anh Vũ Thạch K (sinh năm 1974, nơi thường trú: 11/112 LĐT, phường 15, quận GV, thành phố Hồ Chí Minh) là giám đốc Công ty ĐT. Anh M, anh T và anh V không có yêu cầu giải quyết gì thêm.
Tại bản Cáo trạng số 38/CT-VKSBC ngày 13 tháng 02 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Phan Thanh Tr và Nguyễn Khánh H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời, truy tố bị cáo Đào Minh T về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, vị đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Phan Thanh Tr và Nguyễn Khánh H về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và truy truy tố bị cáo Đào Minh T về tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Phan Thanh Tr mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời hạn thử thách theo quy định pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh H mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời hạn thử thách theo quy định pháp luật.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Đào Minh T mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời hạn thử thách theo quy định pháp luật.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đồng ý với quyết định truy tố, điều khoản áp dụng, mức hình phạt, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng của Viện Kiểm sát.
Tại phiên tòa, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của các bị cáo, ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Bến Cát, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Phan Thanh Tr, Nguyễn Khánh H và Đào Minh T đã khai nhận: Ngày 01/11/2021, H đã được Công ty BP giao xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R-004.78 đến Công ty NT nhận 36 cuộn giấy xeo nguyên liệu để giao cho Công ty ĐT. Khoảng 15 giờ cùng ngày, trên đường điểu khiển xe chở giấy đến Công ty NT thì H nhắn tin qua zalo của Tr biết để chuẩn bị xuống hàng. Lúc này, Tr đã có hành vi nhắn tin kêu H tìm chỗ bán 03 cuộn giấy xeo nguyên liệu để lấy tiền chia nhau tiêu xài và Tr sẽ ký đủ số lượng 36 cuộn giấy thì H đồng ý. H đã gọi điện thoại vào số điện thoại 0818.939395 của Đào Minh T hỏi để bán giấy thì T đồng ý mua với giá 6.500 đồng/kg. H điều khiển xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R-004.78 chở theo 03 cuộn giấy đến đỗ cạnh đường NA3, thuộc khu phố 5 phường Chánh Phú Hòa, thị xã Bến Cát rồi điện thoại cho T đến. Khoảng 15 phút sau, T đến gặp H và nhìn thấy trên xe có 03 cuộn giấy xeo nguyên liệu còn mới, bao bì còn nguyên nên biết là tài sản do H chiếm đoạt được mà có. Tuy nhiên, do hám lợi nên T đồng ý mua và chuyển khoản cho H số tiền 21.500.000 đồng. Do thấy đường đông người qua lại, sợ bị phát hiện nên T kêu H điều khiển xe đầu kéo biển số 61C-402.97 kéo theo sơ mi rơ móc biển số 61R-004.78 chở theo 03 cuộn giấy đi vào khu vực đường NF10, thuộc khu phố 5, phường Chánh Phú Hòa để giao hàng thì H đồng ý. Tại đây, T điện thoại thuê anh Cổ Văn V đến cẩu hàng xuống cho T. Anh V không biết đến cẩu hàng chiếm đoạt được mà có nên đồng ý và điều khiển xe tải có gắn trục cẩu biển số 61C-459.39 đến cẩu hàng. Khi anh V, T và H đang cẩu hàng qua xe anh V thì bị lực lượng Công an đồn Khu công nghiệp phát hiện, nghi vấn nên mời về trụ sở làm việc. Quá trình điều tra, các bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Xét lời khai nhận tội của các bị cáo là phù hợp với lời khai của các bị cáo, vật chứng của vụ án và các chứng cứ, tài liệu đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án.
Xét các bị cáo Phan Thanh Tr, Nguyễn Khánh H có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, biết rõ việc dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của người khác là vi phạm pháp luật, sẽ bị trừng trị, nhưng vì ý thức xem thường pháp luật, nên các bị cáo đã cố tình thực hiện. Xét bị cáo Đào Minh T biết rõ các tài sản mà các bị cáo Tr, H đem bán là tài sản có được từ việc phạm tội mà có, nhưng vì tham lam nên đã đồng ý mua các tài sản này. Xét hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương.
Xét hành vi của các bị cáo Tr và H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xét hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do vậy, Cáo trạng số 38/QĐ-KSĐT ngày 13/02/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị truy tố các bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Xét vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn. Các bị cáo Tr và H cùng thực hiện hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại. Bị cáo Tr là người khởi xướng việc phạm tội. Do vậy, khi quyết định hình phạt thì mức hình phạt của bị cáo Tr có phần nghiêm khắc hơn bị cáo H.
[3] Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo được HĐXX cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; các bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Bị cáo Nguyễn Khánh H có ông ngoại (tên Nguyễn Văn C) là Liệt sĩ. Bị cáo Đào Minh T có bác ruột (tên Đào Minh L) là Liệt sĩ. Các tình tiết này được quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Xét lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát về tội danh, điều khoản, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo là có căn cứ và phù hợp pháp luật.
Xét về hình phạt, do các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, nên việc không bắt các bị cáo đi chấp hành hình phạt tù cũng không ảnh hưởng đến công tác phòng ngừa tội phạm chung và thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước. Thiết nghĩ, khi quyết định hình phạt, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ cải tạo, răn đe, giáo dục các bị cáo thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Do vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong.
[7] Về xử lý vật chứng:
- Tịch thu sung quỹ nhà nước đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen của Nguyễn Khánh H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno 6 màu xanh của Phan Thanh Tr; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh của Đào Minh T; Số tiền 21.500.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy đối với: Sim số 0365.642630 của Nguyễn Khánh H;
sim số 0974.305603 của Phan Thanh Tr; sim số 0818.939395 của Đào Minh T.
[8] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh:
1.1. Tuyên bố bị cáo Phan Thanh Tr và bị cáo Nguyễn Khánh H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
1.2. Tuyên bố bị cáo Đào Minh T phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng khoản 1 Điều 174; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Xử phạt bị cáo Phan Thanh Tr 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 05 (năm) năm, được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Phan Thanh Tr cho Ủy ban nhân dân xã Thới Thuận, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Khánh H 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 04 năm 06 tháng, được tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Khánh H cho Ủy ban nhân dân phường Dĩ An, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
- Áp dụng khoản 1 Điều 323; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Xử phạt bị cáo Đào Minh T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 03 (ba) năm, được tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Đào Minh T cho Ủy ban nhân dân thị trấn Tân Bình, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp người được hưởng án treo (Phan Thanh Tr, Nguyễn Khánh H và Đào Minh T) thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân xã (thị trấn) nơi được giao để giám sát phải thông báo cho Cơ quan Thi hành án hình sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương để tiến hành thủ tục theo quy định tại Điều 68 và Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
2. Về trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong.
3. Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú theo các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số: 77/LCCC-TA, 78/LCCC-TA, 79/LCCC-TA cùng 17/02/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, đối với các bị cáo: Phan Thanh Tr, Nguyễn Khánh H và Đào Minh T.
4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
- Tịch thu sung quỹ nhà nước đối với: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo màu đen của Nguyễn Khánh H, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo Reno 6 màu xanh của Phan Thanh Tr, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu xanh của Đào Minh T; Số tiền 21.500.000 đồng.
- Tịch thu tiêu hủy đối với các sim số 0365642630 của Nguyễn Khánh H;
sim số 0974.305603 của Phan Thanh Tr; sim số 0818.939395 của Đào Minh T (Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08/3/2022 giữa Công an thị xã Bến Cát và Chi cục THADS thị xã Bến Cát và Lệnh thanh toán ngày 08/3/2022 do Công an thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương nộp vào tài khoản của Chi cục THADS thị xã Bến Cát tại Kho bạc Nhà nước thị xã Bến Cát).
5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo Phan Thanh Trung, Nguyễn Khánh H và Đào Minh T mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng.
6. Về quyền kháng cáo:
- Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
- Bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 33/2022/HSST
Số hiệu: | 33/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về