Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 32/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 32/2022/HS-PT NGÀY 11/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 483/2021/TLPT-HS ngày 10 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo Lê Văn T và bị cáo Nguyễn Thị X, do có kháng cáo của 02 bị cáo đối với bản án Hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 02/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Lê Văn T, sinh năm 1980 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn 3, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C1 và bà Lê Thị M1; có vợ là Nguyễn Thị X và 03 con; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-3-2021 (có mặt).

2. Nguyễn Thị X, sinh năm 1982 tại thành phố Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn 3, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C2 (đã chết) và bà Vũ Thị M2; có chồng là Lê Văn T và 03 con; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-3-2021 đến ngày 30-3-2021, tại ngoại (có mặt).

- Người bào chữa chỉ định cho hai bị cáo: Luật sư LS1 - Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 01-8-2014 và 23-9-2015, Lê Văn T được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số BU 385016, thửa đất số 32, tờ số bản đồ 47, diện tích 8.331m2 và GCNQSDĐ số BU 365160, thửa đất số 32, tờ số bản đồ 47, diện tích 8.991m2 thuộc thôn R, xã Q, huyện Đ. Ngày 21-10-2015, T và Nguyễn Thị X (vợ của T) thế chấp 02 GCNQSDĐ số BU 385016 và BU 365160 tại Ngân hàng B Chi nhánh tỉnh Đắk Nông (Ngân hàng B tỉnh Đắk Nông) để vay số tiền 350.000.000 đồng, thời hạn thanh lý hợp đồng vào ngày 17-10-2016.

Tháng 4 năm 2016, T nhờ ông Đào Kim T1, trú tại: Thôn R, xã Q, huyện Đ tìm người mua 02 thửa đất nêu trên, với giá 900.000.000 đồng. Sau đó, ông T1 hỏi diện tích đất này đã được cấp GCNQSDĐ chưa, thì được T đưa ra thông tin diện tích đất này khoảng 02 ha, chưa được cấp GCNQSDĐ. Tháng 6 năm 2016, ông T1 giới thiệu cho anh Nguyễn Văn D (cháu ông T1), trú tại: Thôn Đ1, xã L, huyện B1, tỉnh Lâm Đồng, đến gặp T để thỏa thuận việc chuyển nhượng đất. Ngày 18-6-2016, anh D đến gặp T và X, tại thôn R, xã Q, huyện Đ. Tại đây, T và X đưa ra thông tin với anh D: Thửa đất diện tích khoảng 02 héc ta, chưa được cấp GCNQSDĐ, nhưng đã làm thủ tục, cuối năm 2016 sẽ được cấp GCNQSDĐ và thỏa thuận gía chuyển nhượng là 870.000.000 đồng, anh D đưa trước số tiền 740.000.000 đồng, số tiền 130.000.000 đồng còn lại đến cuối năm 2016, khi được cấp GCNQSDĐ sẽ làm thủ tục chuyển nhượng sẽ giao hết tiền. Sau khi thỏa thuận xong, T và X dẫn anh D đi xem, cắm cọc ranh giới đất. Ngày 18-6- 2016, giữa T, X và anh D viết “Giấy sanh nhượng đất”, giá chuyển nhượng 870.000.000đồng, trả trước 730.000.000đồng. Khoảng 10 ngày sau anh D trả T, X tiếp số tiền 10.000.000đồng, nhận bàn giao đất và canh tác. Đến hạn theo thỏa thuận, anh D nhiều lần đến hỏi về việc thực hiện thủ tục chuyển nhượng đất thì T, X đưa ra thông tin gian dối thửa đất chưa được cấp GCNQSDĐ. Trong các năm 2017, 2018 đến ngày 28-6-2019, T và X đáo hạn Ngân hàng và tiếp tục thế chấp 02 GCNQSDĐ để vay số tiền của Ngân hàng B Chi nhánh tỉnh Đắk Nông, thời hạn trả vào ngày 28-6-2020. Khi quá hạn trả nợ, Ngân hàng thông báo thu hồi tài sản thế chấp để bán đấu giá thu hồi nợ, anh D mới biết thửa đất trên đã được cấp GCNQSDĐ và đến tìm yêu cầu giải quyết nhưng T và X đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, nên đã gửi đơn tố giác đến cơ quan có thẩm quyền.

Cáo trạng số: 30/CTr-VKS(P2) ngày 26-5-2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đã truy tố các bị cáo: Lê Văn T và Nguyễn Thị X về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 02/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông đã quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn T và Nguyễn Thị X phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt Lê Văn T 08 (Tám) năm 06 (Sáu) tháng tù, tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 23-3-2021.

Xử phạt Nguyễn Thị X 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian đã bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-3- 2021 đến ngày 30-3-2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Ngày 08/7/2021, bị cáo Nguyễn Thị X có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. phạt.

Ngày 13/7/2021, bị cáo Lê Văn T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu ý kiến:

Các bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên kháng cáo là hợp lệ. Về tố tụng: cấp sơ thẩm đã tuân thủ đúng quy định về tố tụng. Với các chứng cứ đã thu thập đã đủ cơ sở để quy kết trách nhiệm hình sự về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản “ theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Án sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và tuyên phạt tương xứng. Các bị cáo kháng cáo nhưng không có tình tiết nào mới nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm.

- Các bị cáo trình bày: giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt do hoàn cảnh gia đình khó khăn, đang nuôi ba con nhỏ, bị hại đã nhận được đất và đã sang tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình các bị cáo cũng đã giao thêm cho bị hại 50.000.000 đồng nên tha thiết xin được xem xét giảm hình phạt.

Cả hai bị cáo xác định quá trình điều tra đã tự nguyện khai báo, không bị bức cung, nhục hình.

- Người bào chữa cho hai bị cáo xác định: các bị cáo đã nhìn nhận hành vi phạm tội như nội dung án sơ thẩm nêu. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã được áp dụng, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm tình tiết bị cáo T không biết chữ, cả hai vợ chồng bị cáo có ba con nhỏ và cha mẹ già, gia đình đã nộp thêm 50.000.000 đồng cho bị hại nên xem xét giảm nhẹ cho bị cáo. Về phân hóa tội phạm, đề nghị xem xét vai trò của bị cáo X phụ thuộc vào chồng để có mức án nhẹ hơn. Đề nghị chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

Trong phần đối đáp, Kiểm sát viên cho rằng số tiền 50.000.000 đồng các bị cáo đề cập không có chứng từ chứng minh nên không có cơ sở để chấp nhận.

Các bị cáo nói lời sau cùng: đã hối lỗi, xin xem xét hai vợ chồng còn phải nuôi ba con nhỏ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: quá trình tiến hành tố tụng ở cấp sơ thẩm đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật, các chứng cứ đã được thu thập hợp pháp, đảm bảo tính khách quan, đầy đủ để giải quyết toàn bộ các vấn đề của vụ án. Các bị cáo đã được tự nguyện khai báo, không bị ép cung, nhục hình.

[2] Về nội dung vụ án: căn cứ vào các chứng cứ đã thu thập hợp pháp, đối chiếu lời khai của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác có cơ sở để xác định:

Hai bị cáo đã có hành vi gian dối với ông Nguyễn Văn D trong việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 32, tờ số bản đồ 47, diện tích 8.331m2 được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Đ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (GCNQSDĐ) số BU 385016 vào ngày 01/8/2014 và thửa đất số 32, tờ số bản đồ 47, diện tích 8.991m2 được UBND huyện Đ cấp GCNQSDĐ BU 365160 ngày 23/9/2015; đất thuộc thôn R, xã Q, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

Vào thời điểm thỏa thuận và viết “Giấy sang nhượng đất” ngày 18/6/2016 cho ông D và nhận trước một phần tiền chuyển nhượng 730.000.000 đồng/ 870.000.000 đồng tổng giá trị chuyển nhượng từ ông này thì các bị cáo nêu thông tin về thửa đất là đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng đã làm thủ tục, cuối năm 2016 sẽ được cấp GCNQSD đất. Thực chất, lý do đưa thông tin trên vì hai thửa đất đang được sử dụng làm tài sản thế chấp để đảm bảo cho khoản vay của hai bị cáo tại Ngân hàng B chi nhánh tỉnh Đắk Nông với thời hạn vay từ ngày 21/10/2015 đến 17/10/2016. Các bị cáo đưa thông tin gian dối đất chưa có GCNQSD đất để kéo dài thời gian thực hiện thỏa thuận chuyển nhượng mặc dù biết rõ tài sản đã thế chấp không được phép mang đi giao dịch với bên thứ ba. Việc bị cáo ký giấy sang nhượng đất và giao đất cho ông D sử dụng cũng không thông báo và Ngân hàng cũng không có ý kiến thống nhất về việc này. Khi hết thời hạn của hợp đồng vay nêu trên và đến thời gian cam kết cuối năm 2016, các bị cáo lại tiếp tục nói dối với ông D là chưa được cấp GCNQSD đất nhưng thực tế là tiếp tục thế chấp hai thửa đất trên để đáo hạn tiền vay của Ngân hàng B chi nhánh tỉnh Đắk Nông liên tục vào các năm 2017, 2018, 2019 và thời hạn cuối để trả nợ vay là 28/6/2020, suốt thời gian này các bị cáo cũng không thông báo rõ về tình trạng đất với ông D và để lâm vào tình trạng nợ quá hạn. Ông D chỉ được biết sự thật khi Ngân hàng thông báo thu hồi tài sản thế chấp để bán đấu giá thu hồi nợ, lúc này, hai bị cáo đã bỏ đi khỏi nơi cư trú.

Như vậy, việc các bị cáo đưa thông tin gian dối để chiếm đoạt số tiền của ông D và bỏ mặc cho tài sản bị thu hồi đã cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Mặc dù có giao đất cho ông D sử dụng nhưng khi Ngân hàng thu hồi đất thì đã gây thiệt hại quyền lợi của ông D. Việc các bị cáo hoàn trả tiền cho ngân hàng và hoàn thành thủ tục chuyển nhượng cho ông D diễn ra sau thời điểm khởi tố vụ án nên hành vi phạm tội đã hoàn thành, chỉ là thiệt hại đã được khắc phục. Với số tiền chiếm đoạt 730.000.000 đồng trong thời gian dài được xem là chiếm đoạt tài sản có giá trị đặc biệt lớn nên thuộc tình tiết định khung tăng nặng quy định tại khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Hành vi của các bị cáo là cố ý cùng xâm phạm đến tài sản của người khác nên thuộc trường hợp đồng phạm, tuy nhiên không thể hiện rõ tính chất phạm tội có tổ chức nên án sơ thẩm đã xác định vai trò của từng bị cáo trong vụ án là phù hợp.

Do hậu quả đã được khắc phục, các bị cáo cũng thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên án sơ thẩm vận dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để tuyên phạt so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm. Tuy nhiên, án sơ thẩm đã không áp dụng quy định về phạm tội trong trường hợp đồng phạm và quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là có thiếu sót.

[3] Về yêu cầu kháng cáo:

Xét các bị cáo kháng cáo xin giảm hình phạt với cùng lý do: đã khắc phục xong hậu quả, có trả thêm cho bị hại 50.000.000 đồng để làm thủ tục sang tên trước bạ cho ông D nhưng chưa được ghi nhận khoản tiền này trong giai đoạn sơ thẩm, hoàn cảnh gia đình khó khăn, ba con còn nhỏ cần được chăm sóc.

Xét vụ án có tính đồng phạm, bị cáo X có vai trò thấp hơn so với bị cáo T trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm đã được khắc phục, các bị cáo là vợ chồng có ba con nhỏ nên Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo X và nội dung bào chữa liên quan đến bị cáo X. Riêng bị cáo T không có tình tiết giảm nhẹ mới so với giai đoạn xét xử sơ thẩm, bị cáo giữ vai trò chính trong quá trình thực hiện hành vi, việc nêu khoản tiền đưa thêm cho bị hại không có chứng cứ chứng minh nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo.

Như đề nghị của Kiểm sát viên là có căn cứ để chấp nhận một phần, Hội đồng xét xử thống nhất sửa án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo X, giữ nguyên hình phạt đối với bị cáo T.

Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo T phải chịu án phí phúc thẩm, bị cáo X không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn T, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị X. Sửa một phần bản án Hình sự sơ thẩm số 31/2021/HS-ST ngày 02/7/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn T và Nguyễn Thị X phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; Điều 17; các điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Lê Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 23/3/2021. Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Văn T để đảm bảo việc thi hành án.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị X 05 (năm) năm tù, thời hạn phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian đã bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/3/2021 đến ngày 30/3/2021.

3. Về án phí:

Bị cáo Lê Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Nguyễn Thị X không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

68
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 32/2022/HS-PT

Số hiệu:32/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;