Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 31/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÙ MỸ, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 09/06/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:

38/2021/TLST-HS ngày 28 tháng 5 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1072/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 5 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Võ Văn C, sinh năm 1987; quê quán: H. HÂ, tỉnh BĐ; nơi cư trú: Thôn BHB, xã ÂHĐ, huyện HÂ, tỉnh BĐ; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn M và bà Phạm Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/4/2006, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 (Chín) tháng tù về tội “Truyền bá văn hoá phẩm đồi truỵ”. Ngày 26/11/2021, bị Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số: 89/2021/HS-PT; Ngày 11/01/2022, bị cơ quan CSĐT công an huyện An Lão, tỉnh Bình Định khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 11/3/2022, bị Toà án nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 07/2022/HS-ST. Ngày 22/3/2022, bị Toà án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 14/2022/HS-ST; bị bắt, tạm giam: Không; bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt 08 (Tám) năm tù theo Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số: 01/2022/HS-THHP ngày 25/4/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên tại Trại giam A2 – Cục C10 – Bộ Công an, có mặt.

2. Nguyễn Lịch S, sinh năm 1988; quê quán: H. HÂ, tỉnh BĐ; nơi cư trú: Thôn PTB, xã IA, huyện PT, tỉnh GL; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành Q và bà Lê Thị X; có vợ và 02 người con, lớn nhất sinh năm 2015 và nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án; tiền sự: Không; nhân thân: ngày 18/9/2021, bị Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 (Hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số: 64/2021/HS-ST. Ngày 11/01/2022, bị cơ quan CSĐT công an huyện An Lão, tỉnh Bình Định khởi tố về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Ngày 11/3/2022, bị Toà án nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên xử phạt 02 (Hai) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 07/2022/HS-ST. Ngày 22/3/2022, bị Toà án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên xử phạt 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số: 14/2022/HS- ST; bị bắt, tạm giam: Không; bị cáo hiện đang chấp hành hình phạt 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù theo Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số: 02/2022/HS-THHP ngày 25/4/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên tại Trại giam Xuân Phước- Cục C10 – Bộ Công an, có mặt.

- Bị hại: Anh Đặng Công B, sinh năm: 1993; nơi cư trú: Khu phố LKN, phường HĐ, thị xã HN, tỉnh BĐ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đầu tháng 12 năm 2020, Võ Văn C đặt mua hàng trên mạng xã hội rồi rủ Nguyễn Lịch S giả làm nhân viên giao hàng của cửa hàng điện máy xanh để đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác thì S đồng ý. Đến khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/01/2021, Võ Văn C điều khiển xe ô tô tải biển số 51C-…. chở Nguyễn Lịch S đi từ huyện HÂ, tỉnh BĐ đến khu phố T Q, thị trấn PM, huyện PM, tỉnh BĐ thì gặp anh Đặng Công B đang đứng ở Quảng Trường thuộc khu phố TQ, thị trấn PM, huyện PM thì C và S dừng xe lại rồi đi đến tự giới thiệu mình là nhân viên giao hàng của cửa hàng điện máy xanh. Trong quá trình giao hàng có dư 01 bếp ga và nồi cơm điện nhưng cả hai đều là nhân viên của cửa hàng điện máy xanh nên không thể đem đến cửa hàng để đổi mà nhờ anh B đem bếp ga và nồi cơm điện đến cửa hàng điện máy xanh để đổi lấy số tiền 15.800.000 đồng và hứa sẽ cho anh B số tiền 2.000.000 đồng thì anh B đồng ý.

Lúc này, C và S yêu cầu anh B để lại tài sản để làm tin thì anh B đem xe mô tô 77C1-… đi cầm cố tại tiệm cầm đồ HA của Đặng Hoàng A với số tiền 8.000.000 đồng. Sau khi cầm cố xong, anh Đặng Công B đưa cho C và S số tiền 8.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 thì C và S đưa cho anh B 01 thùng giấy cacton bên trong có 01 bếp ga mặt kính màu đen có chữ Reeni và 01 nồi cơm điện hiệu Cuckoo. Anh Đặng Công B đem đến cửa hàng điện máy xanh ở khu phố TQ, thị trấn PM, huyện PM để đổi nhưng không được. Biết mình bị lừa, anh B quay lại tìm C và S nhưng không được mà cũng không báo cáo sự việc cho cơ quan chức năng để giải quyết. Đến khi nghe thông báo truy tìm bị hại, ngày 27/02/2021, anh Đặng Công B đã làm đơn báo cáo vụ việc cho Cơ quan Công an huyện Phù Mỹ để yêu cầu giải quyết.

Ngày 22/4/2021, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự có văn bản kết luận số 06/KL-HĐĐG xác định: 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6, màu vàng, dung lượng bộ nhớ 32GB có giá 1.350.000 đồng.

Vật chứng thu giữa gồm: 01 (Một) thùng giấy cacton hình chữ nhật cạnh (73x43)cm, cao 15cm, có hiệu Reeni, bên trong thùng giấy có 01 (Một) bếp ga mặt kính màu đen có chữ Reeni, kích thước dài 72cm, rộng 40cm, cao 13cm, mặt hông ngang có nhãn hiệu ghi cơ sở lắp ráp Vũ Thảo ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. 01 (Một) thùng giấy cacton màu trắng hình chữ nhật cạnh (42x30)cm, cao 26cm, có hiệu Cuckoo, bên trong có 01 (Một) nồi cơm điện vở hình Elip kích thước (38x26)cm, cao 25,5cm, mặt trên nắp có hiệu Cuckoo.

Về dân sự: Bị hại anh Đặng Công B yêu cầu Võ Văn C và Nguyễn Lịch S bồi thường số tiền 9.000.000 đồng. Gia đình Nguyễn Lịch S đã tự nguyện bồi thường số tiền 4.500.000 đồng.

Tại Bản cáo trạng số: 27/CT-VKS, ngày 28/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định đã truy tố Võ Văn C, Nguyễn Lịch S ra trước Tòa án nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định để xét xử về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà bị cáo C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên; bị cáo đồng ý bồi thường số tiền còn lại là 4.500.000 đồng cho bị hại B;

Tại phiên toà bị cáo S khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên;

Bị hại anh Đặng Công B vắng mặt: Tại đơn yêu cầu xét xử vắng mặt bị hại xác định bị C, S lừa số tiền 8.000.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 6, màu vàng, dung lượng bộ nhớ 32GB có giá 1.350.000 đồng. Bị hại đã nhận được số tiền 4.500.000 đồng của gia đình bị cáo S bồi thường. Đề nghị xử phạt các bị cáo theo quy định của pháp luật và yêu cầu bị cáo C bồi thường số tiền còn lại là 4.500.000 đồng. Ngoài ra, không có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định giữ nguyên quyết định truy tố, nêu luận tội và đề nghị:

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Võ Văn C từ 18 (Mười tám) đến 24 (Hai mươi bốn) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt 08 (Tám) năm tù theo Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số: 01/2022/HS-THHP ngày 25/4/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Buộc bị cáo Võ Văn C phải chấp hành hình phạt chung của các bản án từ 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 10 (Mười) năm tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lịch S từ 12 (Mười hai) đến 18 (Mười tám) tháng tù.

Tổng hợp hình phạt 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù theo Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số: 02/2022/HS-THHP ngày 25/4/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Buộc bị cáo Nguyễn Lịch S phải chấp hành hình phạt chung của các bản án từ 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù đến 07 (Bảy) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 589 của Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Võ Văn C bồi thường số tiền còn lại cho bị hại B là 4.500.000 đồng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự. Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước: 01 thùng giấy cacton hình chữ nhật cạnh (73x43)cm, cao 15cm, có hiệu Reeni, bên trong thùng giấy có 01 bếp ga mặt kính màu đen có chữ Reeni, kích thước dài 72cm, rộng 40cm, cao 13cm, mặt hông ngang có nhãn hiệu ghi cơ sở lắp ráp Vũ Thảo ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. 01 thùng giấy cacton màu trắng hình chữ nhật cạnh (42x30)cm, cao 26 cm, có hiệu Cuckoo, bên trong có 01 nồi cơm điện vở hình Elip kích thước (38x26)cm, cao 15,5cm, mặt trên nắp có hiệu Cuckoo.

Lời nói sau cùng của các bị cáo C, S: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phù Mỹ; Điều tra viên, Cán bộ điều tra; Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người bị hại và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Hội đồng xét xử sơ thẩm có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 07/01/2021, tại khu vực QT thuộc khu phố TQ, thị trấn PM, huyện PM, tỉnh BĐ. Các bị cáo Võ Văn C, Nguyễn Lịch S đã trao đổi và cùng thống nhất, đưa ra thông tin gian dối là nhân viên của Cửa hàng điện máy xanh đang giao dư bếp ga, nồi cơm điện, nếu trực tiếp trả về sẽ bị trừ lương; rồi đặt vấn đề với bị hại B nhờ đóng vai khách hàng đem bếp ga, nồi cơm điện đến cửa hàng điện máy xanh để đổi và nhận lại số tiền 15.800.000 đồng; các bị cáo C, S hứa sẽ trả tiền công cho anh B là 2.000.000 đồng; đồng thời yêu cầu bị hại B đưa lại tài sản để làm tin và đã chiếm đoạt của bị hại B số tiền 9.350.000 đồng (gồm số tiền 8.000.000 đồng và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 có giá trị 1.350.000 đồng).

Các bị cáo C, S là những người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi phạm tội nhưng vì nhu cầu tiêu sài cá nhân, nên các bị cáo đã bất chấp pháp luật cố ý dùng thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác một cách bất hợp pháp.

Hành vi nêu trên của các bị cáo C, S đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng số: 27/CT-VKS ngày 28/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định truy tố các bị cáo C, S về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Từ ngày 07/12/2020 đến ngày 12/01/2021 các bị cáo C, S đã thực hiện tổng cộng 12 lần Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Trong đó, 08 lần Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên đã đưa ra xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự; 01 lần bị Toà án nhân dân huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên đã đưa ra xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự. 01 lần bị Toà án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên đã đưa ra xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự. 01 lần xảy ra trên địa bàn huyện An Lão, tỉnh Bình Định vào ngày 08/01/2021. Trong vụ án này các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 07/01/2021 (trong cùng thời gian các vụ án đã đưa ra xét xử), nên không áp dụng tình tiết định khung có tính chất chuyên nghiệp theo điểm b khoản 2 Điều 174 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Hành vi phạm tội của các bị cáo C, S không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an xã hội, gây tâm lý lo lắng trong nhân dân.

[3] Trong vụ án này có 02 bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội; các bị cáo có bàn bạc, trao đổi nhưng chưa có sự phân công, câu kết chặt chẽ, nên chỉ mang tính đồng phạm giản đơn. Trong đó: Bị cáo C là người chủ mưu, vạch kế hoạch, chuẩn bị công cụ (đặt bếp ga, nồi cơm điện, làm thẻ nhân viên Điện máy xanh) phạm tội, lôi kéo, rủ rê bị cáo S cùng tham gia phạm tội. Bị cáo S tham gia với vai trò giúp sức tích cực.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5.1] Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà các bị cáo C, S thành khẩn khai báo nhận tội, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5.2] Bị cáo S đã tác động gia đình đã bồi thường khắc phục hậu quả cho bị hại và cha của bị cáo S thuộc đối tượng tham gia chiến tranh bảo vệ tổ quốc, làm nhiệm vụ quốc tế sau ngày 30/4/1975. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Căn cứ vào vai trò, tính chất, mức độ, hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cáo thấy rằng: Cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo có ý thức tuân thủ pháp luật và góp phần trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.

[7] Về tổng hợp hình phạt.

[7.1] Đối với bị cáo Võ Văn C: Đang chấp hành hình phạt 08 (Tám) năm tù theo Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số: 01/2022/HS-THHP ngày 25/4/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Do đó, sau khi quyết định hình phạt của tội này thì tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự.

[7.2] Đối với bị cáo Nguyễn Lịch S: Đang chấp hành hình phạt 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù theo Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số:

02/2022/HS-THHP ngày 25/4/2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Do đó, sau khi quyết định hình phạt của tội này thì tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Bộ luật hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại B yêu cầu bị cáo C bồi thường số tiền còn lại là 4.500.000 đồng. Đối với số tiền 4.500.000 đồng của gia đình bị cáo S đã bồi thường xong. Tại phiên toà bị cáo C đồng ý bồi thường cho bị hại B số tiền đã chiếm đoạt còn lại là 4.500.000 đồng. Xét yêu cầu của bị hại B là có cơ sở và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 48 của Bộ luật hình sự, buộc bị cáo C bồi thường cho bị hại B số tiền còn lại là 4.500.000 đồng.

[9] Về xử lý vật chứng:

[9.1] Đối với xe ô tô biển số kiểm soát 51C-…. đã xử lý tại Bản án số 64/2021/HS-ST ngày 18/9/2021 của Toà án nhân dân thành phố Tuy Hoà, tỉnh Phú Yên, nên Hội đồng xét xử không xem xét;

[9.2] 01 (Một) thùng giấy cacton hình chữ nhật cạnh (73x43)cm, cao 15cm, có hiệu Reeni, bên trong thùng giấy có 01 (Một) bếp ga mặt kính màu đen có chữ Reeni, kích thước dài 72cm, rộng 40cm, cao 13cm, mặt hông ngang có nhãn hiệu ghi cơ sở lắp ráp Vũ Thảo ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh.

01 (Một) thùng giấy cacton màu trắng hình chữ nhật cạnh (42x30)cm, cao 26cm, có hiệu Cuckoo, bên trong có 01 (Một) nồi cơm điện vở hình Elip kích thước (38x26)cm, cao 15,5cm, mặt trên nắp có hiệu Cuckoo. Đây là công cụ các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, nên tịch thu sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

[11] Về đề nghị của Kiểm sát viên: Về tội danh; điều luật áp dụng; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị hình phạt đối với các bị cáo đều phù hợp với nhận định trên, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Võ Văn C;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 174; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo Nguyễn Lịch S;

Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; các Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng Hình sự;

Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Võ Văn C, Nguyễn Lịch S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt bị cáo Võ Văn C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tổng hợp hình phạt 08 (Tám) năm tù tại Quyết Định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số: 01/2022/QĐ-CA ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Buộc bị cáo Võ Văn C phải chấp hành hình phạt chung là 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 13/01/2021.

2.2. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lịch S 01 (Một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Tổng hợp hình phạt 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù tại Quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án số: 02/2022/QĐ-CA ngày 25 tháng 4 năm 2022 của Chánh án Tòa án nhân dân thị xã Sông Cầu, tỉnh Phú Yên. Buộc bị cáo Nguyễn Lịch S phải chấp hành hình phạt chung là 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 13/01/2021.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Võ Văn C phải bồi thường thiệt hại cho anh Đặng Công B số tiền 4.500.000 (Bốn triệu năm trăm nghìn) đồng.

4. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước: 01 (Một) thùng giấy cacton hình chữ nhật cạnh (73x43)cm, cao 15cm, có hiệu Reeni, bên trong thùng giấy có 01 (Một) bếp ga mặt kính màu đen có chữ Reeni, kích thước dài 72cm, rộng 40cm, cao 13cm, mặt hông ngang có nhãn hiệu ghi cơ sở lắp ráp Vũ Thảo ở quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh. 01 (Một) thùng giấy cacton màu trắng hình chữ nhật cạnh (42x30)cm, cao 26cm, có hiệu Cuckoo, bên trong có 01 (Một) nồi cơm điện vỏ hình Elip KT(38x26)cm, cao 25,5cm, mặt trên nắp có hiệu Cuckoo.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 16/QĐ-VKS ngày 28/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Phù Mỹ và Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 28/5/2021 giữa Công an huyện Phù Mỹ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Phù Mỹ) 5. Về án phí:

5.1. Buộc bị cáo Võ Văn C phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm;

5.2. Buộc bị cáo Nguyễn Lịch S phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại B có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

7. Về quyền, nghĩa vụ thi hành án:

7.1. Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

7.2. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

364
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phù Mỹ - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;