Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 31/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 31/2022/HS-ST NGÀY 21/06/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 21 tháng 6 năm 2022 tại phòng xét xử, Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 35/2022/HSST ngày 09 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 34/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Thế Mến T; tên gọi khác: M; sinh ngày 21 tháng 10 năm 2001; nơi sinh: tỉnh Đắk Nông; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: Thôn 3, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thế H, sinh năm 1974 và con bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1973; có vợ là Nguyễn Nhung Phương U, sinh năm 2002 và có 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2017; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02-3-2022– Có mặt.

Tiền sự: 01 tiền sự, ngày 26-02-2022, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đắk Wer, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 09/QĐ-XPHC. Bị cáo đã nộp tiền phạt vào ngày 22-3-2022.

Nhân thân: Ngày 29-9-2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Đến ngày 01-6-2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can, với lý do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố.

Bị hại: Ông Đỗ Xuân T, sinh năm 1961 Địa chỉ: Thôn 9, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1983 Địa chỉ: Thôn 11, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt

Anh Tạ Văn P, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt

Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1959 Địa chỉ: Thôn 11, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Vắng mặt

Chị Nguyễn Nhung Phương U, sinh năm 2002 Địa chỉ: Thôn 3, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bị cáo Lê Thế Mến T bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sáng ngày 01-3-2022, Lê Thế Mến T cùng Tạ Văn P, Lâm Thành C đến ăn nhậu tại quán H thuộc thôn 3, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Trong lúc nhậu thì P và Lê Thế Mến T xảy ra mâu thuẫn về việc trước đó P và Lê Thế Mến T đi hát karaoke cùng nhau nhưng Lê Thế Mến T không góp tiền trả. Sau đó, P yêu cầu Lê Thế Mến T trả số tiền 1.200.000 đồng thì Lê Thế Mến T đồng ý, T để chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 mà T đang sử dụng lại bàn nhậu để làm tin và hẹn đến 11 giờ 30 phút sẽ có tiền trả cho P. Nói xong, Lê Thế Mến T đi đến phòng trọ của ông Đỗ Xuân T, sinh năm 1961, tại thôn 9, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông để mượn 500.000 đồng nhưng ông Đỗ Xuân T không có tiền. Thấy ông Đỗ Xuân T có một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s đang để phía trên hộp giấy, gần chiếc nồi cơm điện nên Lê Thế Mến T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại này. Để tạo lòng tin với ông T, Lê Thế Mến T nói ông T nấu cơm cho Lê Thế Mến T ăn cùng rồi mượn điện thoại của ông T để gọi đòi tiền công, sau khi ông T cho mượn điện thoại Lê Thế Mến T giả vờ nói chuyện qua điện thoại đòi tiền công với số tiền 1.500.000 đồng cho ông T nghe thấy, mục đích để ông Đỗ Xuân T tin tưởng cho Lê Thế Mến T mượn điện thoại để tiện liên lạc khi đi lấy tiền nhưng thực tế Lê Thế Mến T không gọi cho người nợ tiền công mà gọi vào số sim lắp trong chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 mà Lê Thế Mến T đang sử dụng và đang để ở quán nhậu.

Sau khi mượn được điện thoại của ông Đỗ Xuân T, Lê Thế Mến T mang đến tiệm cầm đồ 168, địa chỉ: Thôn 11, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông do anh Nguyễn Thành T làm chủ, cầm cố lấy số tiền 1.500.000 đồng. Lê Thế Mến T trả tiền ăn nhậu cho quán hết 500.000 đồng, trả cho P 1.000.000 đồng. P giữ lại 500.000 đồng, còn 500.000 đồng thì nhờ Lê Thế Mến T trả cho Phạm Hoài B, trú tại: Thôn 11, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Do không gặp được B nên Lê Thế Mến T đã đến cửa hàng cầm đồ Đ thuộc thôn 3, xã N, huyện Đ để nhờ chuyển số tiền 500.000 đồng vào số tài khoản do B cung cấp (số tài khoản này là của bà Nguyễn Thị L, mẹ B).

Về phần ông T, sau khi Lê Thế Mến T mượn điện thoại được khoảng 30 phút, không thấy Lê Thế Mến T mang điện thoại về trả nên ông T nhờ anh Lê Hữu D, trú tại: Thôn 7, xã N, huyện Đ gọi điện thoại cho Lê Thế Mến T, yêu cầu T mang điện thoại về trả. Đến khoảng 13 giờ cũng ngày, Lê Thế Mến T đến phòng trọ của ông T, nói với ông T là “điện thoại của bác bị người ta cấn trừ nợ rồi, mai cháu chuộc điện thoại về trả cho bác, bác cầm điện thoại cháu xài đỡ”, đồng thời đưa chiếc điện thoại Iphone 6 mà Lê Thế Mến T đang sử dụng cho ông T, ông T không đồng ý nên đã trình báo hành vi của Lê Thế Mến Tđến cơ quan Công an.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp, Lê Thế Mến T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu ở trên.

Bản kết luận định giá tài sản số 05/KLHĐĐG ngày 09/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk R’Lấp kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s, vỏ màu xanh đen, kiểu máy SM- A217F/DS, số seri R58N91 ZLXZM, đã qua sử dụng. Tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị: 2.820.000 đồng (Hai triệu tám trăm hai mươi nghìn đồng).

Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s, màu xanh đen đã qua sử dụng.

01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, số máy MG492J/A, số sêri C37NXHLMG5MQ đã qua sử dụng.

Số tiền 500.000 đồng do anh Tạ Văn P giao nộp.

Số tiền 500.000 đồng do bà Nguyễn Thị L (Là mẹ của Phạm Hoài B) giao nộp.

01 hợp đồng cầm cố (gồm hai liên) ghi ngày 29/02/2021 (Quá trình điều tra xác định: Do anh Nguyễn Thành T nhớ nhầm ngày, tháng, năm, thực tế ngày bị cáo cầm cố là ngày 01/3/2022).

Tại bản cáo trạng số 39/CTr - VKS ngày 06 tháng 5 năm 2022 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đắk R’Lấp để xét xử bị cáo Lê Thế Mến T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Thế Mến T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, thừa nhận Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là đúng, không oan và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Thế Mến T về tội“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Sau khi đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Thế Mến T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Lê Thế Mến T từ 09 tháng đến 12 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam.

Về vật chứng vụ án:

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s, màu xanh đen đã qua sử dụng quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của ông Đỗ Xuân T, nên ngày 11/3/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 08/QĐ-CSĐT, trả lại cho ông T là chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6, số máy MG492J/A, số sêri C37NXHLMG5MQ đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Nhung Phương U (là vợ bị cáo T), nên ngày 28/3/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số10/QĐ-CSĐT, trả lại cho chị U là chủ sở hữu hợp pháp nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Đối với 01 hợp đồng cầm cố (gồm hai liên) ghi ngày 29/02/2021 (quá trình điều tra xác định: do anh Nguyễn Thành T nhớ nhầm ngày, tháng, năm, thực tế ngày cầm cố là ngày 01/3/2022) đề nghị Hội đồng xét xử cần tiếp tục lưu hồ sơ vụ án.

Đối với số tiền 500.000 đồng do anh Tạ Văn P giao nộp, số tiền 500.000 đồng bà Nguyễn Thị L giao nộp, là do bị cáo bán tài sản chiếm đoạt mà có để trả cho những người trên. Tuy nhiên, quá trình điều tra, gia đình bị cáo đã bồi thường cho anh Nguyễn Thành T số tiền 1.500.000 đồng. Do đó, áp dụng khoản 2 Điều 47, khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự, đề nghị trả lại số tiền trên cho anh P và bà L.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đỗ Xuân T đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đề cập.

Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành T số tiền 1.500.000 đồng, anh T không yêu cầu gì thêm nên không đề cập.

Tại phiên toà bị cáo không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình mà chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án;

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk R’Lấp, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Thế Mến T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, biên bản khám nghiệm hiện trường và phù hợp với tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện:

Vào khoảng 11 giờ 30 phút, ngày 01-3-2022, tại phòng trọ của ông Đỗ Xuân T, thuộc thôn 9, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, do cần tiền để sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân nên bị cáo Lê Thế Mến T đã nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của ông Đỗ Xuân T. Để tạo lòng tin với ông T, bị cáo nói ông T nấu cơm cho bị cáo ăn cùng rồi mượn chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s của ông T để gọi điện đòi tiền công, sau khi ông T cho mượn điện thoại, bằng thủ đoạn gian dối bị cáo giả vờ nói chuyện qua điện thoại để đòi số tiền công 1.500.000 đồng cho ông T nghe, mục đích để ông T tin tưởng cho Lê Thế Mến T mượn điện thoại để tiện liên lạc khi đi lấy tiền công, nhưng thực tế bị cáo không gọi cho người nợ tiền công mà gọi vào số sim lắp trong chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 6 mà Lê Thế Mến T đang sử dụng (Lúc này điện thoại bị cáo đang để ở quán nhậu). Sau khi ông Đỗ Xuân T cho bị cáo mượn điện thoại, bị cáo đã mang đi cầm cố lấy số tiền 1.500.000 đồng.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KLHĐĐG ngày 09/3/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk R’Lấp kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s, vỏ màu xanh đen, kiểu máy SM- A217F/DS, số seri R58N91 ZLXZM, đã qua sử dụng. Tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị: 2.820.000 đồng (Hai triệu tám trăm hai mươi nghìn đồng).

Do đó, có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Lê Thế Mến T phạm tội“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định:

“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”

[3]. Đánh giá tính chất vụ án là ít nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đủ khả năng nhận thức rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật; xâm phạm tài sản của người khác; làm mất trật tự an toàn xã hội; bị toàn xã hội lên án nhưng do ý thức coi thường pháp luật nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử cần áp dụng một hình phạt thật nghiêm tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo đã gây ra để răn đe, cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành một công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[4]. Về tình tiết định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm tình tiết định khung tăng nặng nên bị xét xử ở điểm đ khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành T số tiền 1.500.000 đồng, anh T đã có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị hại Đỗ Xuân T có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6]. Về hình phạt:

Bị cáo là người có nhân thân xấu và có 01 tiền sự: Ngày 29-9-2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Đến ngày 01-6-2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông ra Quyết định đình chỉ điều tra vụ án đối với bị can, với lý do bị hại rút đơn yêu cầu khởi tố; ngày 26-02-2022, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đắk Wer, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xử phạt hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản”, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 09/QĐ-XPHC. Bị cáo đã nộp tiền phạt vào ngày 22-3-2022 nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để răn đe, cải tạo bản thân mà lại tiếp tục phạm tội.

Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng một hình phạt nghiêm tương xứng với tính chất hành vi mà bị cáo Lê Thế Mến T đã gây ra và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân biết chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung.

[7]. Về trách nhiệm dân sự:

Bị hại Đỗ Xuân T đã nhận lại tài sản là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s, ông T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đề cập giải quyết.

Bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành T số tiền 1.500.000 đồng, anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không đề cập giải quyết.

[8]. Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s là tài sản hợp pháp của ông Đỗ Xuân T nên ngày 11-3-2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 08/QĐ-CSĐT, trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp nên cần chấp nhận.

Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Nhung Phương U, nên ngày 28-3-2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 10/QĐ-CSĐT, trả lại tài sản cho chủ sở hữu hợp pháp nên cần chấp nhận.

Đối với số tiền 500.000 đồng do anh Tạ Văn P giao nộp, số tiền 500.000 đồng bà Nguyễn Thị L giao nộp, quá trình điều tra xác định đây là số tiền do bị cáo phạm tội mà có. Tuy nhiên, quá trình điều tra bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thành T số tiền 1.500.000 đồng, do vậy cần trả lại cho anh Tạ Văn P số tiền 500.000 đồng, trả lại cho bà Nguyễn Thị L số tiền 500.000 đồng.

Đối với 01 hợp đồng cầm cố (gồm hai liên) ghi ngày 29-02-2021 là tài liệu kèm theo hồ sơ vụ án nên cần tiếp tục lưu giữ theo hồ sơ vụ án.

[9]. Đối với anh Nguyễn Thành T đã có hành vi cầm cố chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s của bị cáo Lê Thế Mến T nhưng anh T không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý.

Đối với anh Tạ Văn P có nhận của bị cáo số tiền 500.000 đồng, bà Nguyễn Thị L có nhận của bị cáo số tiền 500.000 đồng nhưng anh P, bà L không biết đây là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên không có căn cứ xử lý.

[10]. Xét quan điểm và đường lối xử lý của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp tại phiên tòa về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và xử lý vật chứng đối với bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử cần chấp nhận.

[11]. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 174; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tuyên bố bị cáo Lê Thế Mến T phạm tội“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Lê Thế Mến T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 02-3-2022.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 46, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 08/QĐ-CSĐT, ngày 11-3-2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A21s cho ông Đỗ Xuân T là chủ sở hữu hợp pháp.

Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số số 10/QĐ-CSĐT, ngày 28-3-2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’Lấp trả 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 cho chị Nguyễn Nhung Phương U là chủ sở hữu hợp pháp.

Trả lại cho anh Tạ Văn P số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng); trả lại cho bà Nguyễn Thị L số tiền 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) (Hiện số tiền này đang lưu giữ trong tài khoản tạm giữ của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông) Tịch thu, lưu giữ theo hồ sơ vụ án 01 hợp đồng cầm cố (gồm hai liên) ghi ngày 29-02-2021.

(Các vật chứng có đặc điểm được mô tả như trong biên bản thu giữ vật chứng)

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 21, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Lê Thế Mến T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

163
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 31/2022/HS-ST

Số hiệu:31/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;