Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 299/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 299/2021/HS-ST NGÀY 20/08/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố T, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 317/2021/TLST-HS ngày 23/7/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 310/2021/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2021, đối với các bị cáo:

1.Lê Duy K ,Sinh ngày: 10/8/2003; Nơi cư trú: 777A B, phường Đ, TP T, tỉnh Thanh Hóa;Nghề nghiệp: Lao động tự do ; Văn hoá: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Lê Duy Đ, SN: 1972; Con bà: Lê Thị Thúy H1, SN: 1976; Gia đình có 2 anh em, K là con đầu; Tiền án, Tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2.Nguyễn Quang H, Sinh ngày: 01/11/2003; Nơi cư trú: 07/6 Đương Đình Nghệ, P. S, TP T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Học sinh ; Văn hoá: 12/12 ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông: Nguyễn Duy Q - SN: 1979; Con bà: Nguyễn Thị T1 , SN: 1981; Gia đình có 2 anh em, H là con đầu; Tiền án, Tiền sự: Không; Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa - Người đại diện hợp pháp cho bị cáo K: Bà Lê Thị Thúy H1, SN: 1976 (Mẹ của bị cáo K); Nơi cư trú: 777A Bà Triệu, phường Đ, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa - Người đại diện hợp pháp cho bị cáo H: Bà Nguyễn Thị T1, SN: 1981 (Mẹ của bị cáo H); Nơi cư trú: 07/6 Đ, P. S, TP T, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa - Người bào chữa cho bị cáo K và H: Bà Nguyễn Thị Nữ H3 – Trợ giúp viên pháp lý, Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Thanh Hóa. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Nguyễn Lường T1, sinh năm: 1999. Vắng mặt tại phiên tòa. Nơi cư trú: Số 03 Đ, phường Đông C, TP T, tỉnh Thanh Hóa (Anh T1 có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên ngày 15/3/2021 Lê Duy K bàn bạc với Nguyễn Quang H sử dụng 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS: 36B4- 653.06 của bố H đến nhà anh Nguyễn Lường T1- SN 1999, trú tại 03 Đông Thổ, P. Đông Cương, TP. Thanh Hóa (bạn của K quen biết từ trước) để giả vờ cầm cố xe, khi đi sẽ mang theo hai chiếc chìa khoá xe, K cầm một chìa khóa đưa cho T1 tạo lòng tin để T1 đưa tiền còn H cầm 01 chìa khóa xe đứng ngoài với mục đích khi nào K lấy được tiền sẽ ra xe cùng tẩu thoát. Sau đó, K gọi điện cho anh T1 hẹn đến cửa hàng của anh T1 tại 469 Đình Hương, Phường Đông Cương, Thành phố T để cầm cố chiếc xe mô tô Yamaha Exciter vào ngày 16/3/2021. Khoảng 12 giờ ngày 16/3/2021, H điều khiển xe mô tô Exciter BKS: 36B4- 653.06 màu đỏ chở K đến cửa hàng anh T1 tại số 469 Đình Hương, Phường Đông Cương, Thành phố T. Trên đường đi H đưa cho K 01 chìa khóa xe để vào giao dịch với anh T1 còn H cầm 01 chìa khóa như kế hoạch đã bàn bạc trước đó. Khi đến nơi, H dựng xe trước cửa hàng anh T1 và đứng phía ngoài cạnh chiếc xe, còn K vào trực tiếp giao dịch với anh T1; khi gặp T1, K thỏa thuận cầm cố chiếc xe mô tô trên với giá 12 triệu đồng, K để chìa khóa trên bàn và nói: “Chìa khóa đây, xe đang ngoài đường”; anh T1 lấy tiền đưa cho K đếm, sau khi đếm tiền xong K giả vờ nhờ T1 gọi hộ chiếc xe taxi để về, khi anh T1 quay vào bên trong quán, lợi dụng sơ hở K cầm tiền chạy ra phía ngoài chỗ H đợi, H nổ xe máy, K nhảy lên xe và cả hai bỏ chạy về hướng TP. T để tẩu thoát. Sau đó, anh T1 quay ra không thấy K và H, anh T1 hô hào mọi người đuổi theo xe của K nhưng không được. Sau khi chiếm đoạt được số tiền 12 triệu đồng của anh T1, K sử dụng số tiền 03 triệu đồng để chuộc xe đạp điện của K, cả hai cùng tiêu xài cá nhân hết số tiền 02 triệu đồng, K đưa H số tiền 07 triệu đồng. H đã trả nợ hết 6.000.000 đồng cho bạn.

Ngày 17/03/2021 Công an phường Đông C, Thành phố T triệu tập làm việc đối với Lê Duy K và Nguyễn Quang H, K và H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, H tự nguyện giao nộp số tiền 1.000.000đ ; bị hại là anh Nguyễn Lường T1 giao nộp cho Công an P. Đông Cương, TP. Thanh Hóa 01 chìa khoá xe mô tô nhãn hiệu Yamaha là chiếc chìa khóa K để lại làm tin khi đến cầm cố xe ở của hàng anh T1 .

Ngày 18/03/2021 anh Nguyễn Duy Quang- SN 1979 trú tại 07/6 Dương Đình Nghệ, P. S, TP. Thanh Hóa (bố của H) đến Công an Phường Đông Cương giao nộp 01 đăng ký xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter mang tên Lê Tất Lợi và 01 xe mô tô Yamaha Exciter BKS 36B4- 653.06, màu đỏ là chiếc xe H và K sử dụng để giả vờ cầm cố xe chiếm đoạt tài sản của anh T1 .

Ngày 18/03/2021 Gia đình của K và H đã tự nguyện khắc phục số tiền 12.000.000đ cho anh Nguyễn Lường T1, anh T1 đã nhận đủ số tiền trên .Ngày 24/05/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố T ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại số tiền 1.000.000 đồng cho Nguyễn Quang H do bị hại nhận đủ số tiền gia đình K và H khắc phục.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, BKS: 36B4- 653.06 của anh Nguyễn Duy Quang- SN 1979, trú tại 07/6 Đương Đình Nghệ, Phường S, Thành phố T (bố H) đã mua lại chiếc xe của là anh Lê Tất Lợi – SN: 1988 trú tại 21/21 Lê Thần Tông, Phường Đông Vệ, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa từ tháng 11/2020 nhưng chưa làm thủ tục sang tên, việc H mượn chiếc xe mô tô trên của anh Quang, anh Quang không biết H dùng làm phương tiện phạm tội, nên ngày 26/5/2021 Cơ quan điều tra trả lại 01 đăng ký xe, 01 chiếc chìa khóa xe mô tô và 01 chiếc xe mô tô trên cho anh Nguyễn Duy Quang.

Về phần dân sự, sau khi nhận lại tài sản anh Nguyễn Lường T1 không có yêu cầu đề nghị gì về phần bồi thường dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo H, K.

Tại bản Cáo trạng số 211/CTr-VKS ngày 23 tháng 7 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá truy tố các bị cáo Lê Duy K và Nguyễn Quang H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 BLHS.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh Hoá tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b,i,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 36, Điều 58; Điều 91; Điều 100 BLHS đề nghị xử phạt bị cáo K mức hình phạt từ 15 đến 18 tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo H mức hình phạt 12 đến 15 tháng cải tạo không giam giữ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

- Bị cáo, người đại diện hợp pháp cho các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên. Người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét căn cứ các quy định của pháp luật để xem xét cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương vì khi phạm tội các bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức, suy nghĩ còn bồng bột, nông nổi; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, lần đầu tiên phạm tội và các bị cáo đã tác động với gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại. Người đại diện hợp pháp cho các bị cáo cũng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được cải tạo tại địa phương.

Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và xin cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thống nhất với lời khai trong quá trình điều tra, lời khai của bị hại, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong quá trình điều tra và các vật chứng thu được trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ và cơ sở để kết luận:

Vào ngày 16/3/2021 Lê Duy K và Nguyễn Quang H đã dùng thủ đoạn gian dối tạo lòng tin bằng hình thức giả vờ cầm cố chiếc xe mô tô Yamaha Exciter BKS 36B4-653.06 để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của anh Nguyên Lường T1 số tiền 12.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo Lê Duy K, Nguyễn Quang H phạm vào tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Tính chất vụ án: Xuất phát từ nhu cầu tiêu xài cá nhân và ý thức coi thường pháp luật, Lê Duy K và Nguyễn Quang H đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của anh Nguyễn Lường T1 12.000.000 đồng. Hành vi của các bị cáo không những nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác mà còn gây mất trật tự an toàn xã hội, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân nên cần phải xử lý nghiêm minh.

[4] Xét vị trí, vai trò đồng phạm: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn bởi các bị cáo đều cùng thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên bị cáo K là người khởi xướng, trực tiếp liên lạc và nhận tiền từ anh T1, bị cáo H là đồng phạm giúp sức cùng bị cáo K đề thực hiện hành vi phạm tội nên bị cáo K cần có mức hình phạt nghiêm khắc hơn bị cáo H.

[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự . Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đều thành khẩn khai báo; Các bị cáo đều phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại; bị hại anh Nguyễn Lường T1 đã có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú ổn định, rõ ràng. Mặt khác các bị cáo phạm tội chưa đủ 18 tuổi nên cần căn cứ Điều 91của Bộ luật hình sự để quyết định hình phạt đối với các bị cáo.

Xét thấy, không cần thiết cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà áp dụng Điều 36, Điều 100 của BLHS cho các bị cáo được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ, cải tạo dưới sự giám sát của chính quyền địa phương cũng đủ điều kiện để cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

[5] Về hình phạt bổ sung và khấu trừ thu nhập: Các bị cáo là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung và việc khấu trừ thu nhập đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Lường T1 đã nhận đủ số tiền bồi thường và không yêu cầu gì thêm nên công nhận phần dân sự giữa các bị cáo và bị hại đã được giải quyết xong.

[7] Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 BLTTHS và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của UBTV Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 174; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36; Điều 58; Điều 91; Điều 100 BLHS; khoản 2 Điều 136 BLTTHS. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326 của Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Các bị cáo Lê Duy K, Nguyễn Quang H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

Xử phạt: Bị cáo Lê Duy K 15 (mười lăm) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân phường Đ, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa nhận được bản án và Quyết định thi hành án.

Bị cáo Nguyễn Quang H 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân phường S, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa nhận được bản án và Quyết định thi hành án.

Không khấu trừ thu nhập và không xử phạt hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Lê Duy K và Nguyễn Quang H.

Giao bị cáo Lê Duy K cho Uỷ ban nhân dân phường Đ, TP T, tỉnh Thanh Hóa phối hợp cùng gia đình bị cáo giám sát, giáo dục bị cáo K trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Nguyễn Quang H cho Uỷ ban nhân dân phường S, TP Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa phối hợp cùng gia đình bị cáo giám sát, giáo dục bị cáo H trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Trường hợp các bị cáo Lê Duy K, Lê Quang H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 100 Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian chấp hành án, bị cáo phải thực hiện một số nghĩa vụ theo quy định của pháp luật về cải tạo không giam giữ.

Về Trách nhiệm dân sự: Công nhận phần dân sự giữa các bị cáo với bị hại đã giải quyết xong

Về án phí: Mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án đối với khoản tiền án phí theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự .

Quyn kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

321
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 299/2021/HS-ST

Số hiệu:299/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;