Bản án 29/2024/HS-PT về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 29/2024/HS-PT NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế, xét xử phúc thẩm trực tiếp công khai vụ án hình sự thụ lý số 510/2023/TLPT-HS ngày 19 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Hoàng Trúc L cùng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Lại Ngọc Đoan T, sinh ngày 20 tháng 4 năm 1991, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: thành phố Hồ Chí Minh; nơi ở hiện tại: Quận Y, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nữ; trình độ học vấn: 12/12; con ông Lại Văn K và bà Nguyễn Thị C; chưa có chồng; con: có 01 con, sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt.

2. Nguyễn Hoàng Trúc L, sinh ngày 15 tháng 7 năm 2003, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: quận Y, thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 12/12; con ông: không rõ; con bà Nguyễn Thị Hoàng M; sống chung như vợ chồng với anh Nguyễn Quốc Anh T (không đăng ký kết hôn) con: có 01 con, sinh ngày 26/12/2019; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt. (ngoài ra còn có nhiều bị cáo khác không kháng cáo)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lại Ngọc Đoan T thành lập Công ty TNHH kinh doanh đầu tư HT, đăng ký vào ngày 26/10/2020, lĩnh vực kinh doanh bán đồ gia dụng online. T thuê nhà tại địa chỉ số Y1 đường Y2 khu dân cư P, ấp 5, xã P, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh. Tháng 3 năm 2022, T tổ chức cho nhân viên thực hiện việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác. T thỏa thuận trả lương và trích hoa hồng cho nhân viên như sau: Nếu lừa được trên 30.000.000 đồng/01 tháng lương và hoa hồng là 5.000.000 đồng cộng với tổng số tiền nhân viên lừa được trong tháng chia cho 1.200.000 nhân với 250.000 đồng. Nếu lừa được dưới 30.000.000 đồng/01 tháng thì lương là 3.000.000 đồng cộng với tổng số tiền nhân viên lừa được trong tháng chia cho 1.500.000 nhân với 250.000 đồng.

Cách thức thực hiện việc lừa đảo như sau:

- Lại Ngọc Đoan T lên mạng tìm hiểu để mua thông tin cá nhân như họ tên, địa chỉ, số điện thoại, số CMND hoặc CCCD. Trong đó có mua của Nguyễn Thị Thảo T, sinh ngày 24/2/1994, trú tại Ấp 1 xã C1, huyện L1, tỉnh Sóc Trăng là nhân viên Công ty tài chính cổ phần T1, địa chỉ: Lầu 9, Tòa nhà V, Sóc Trăng có tài khoản mạng xã hội Telegram là “Duong Duong”. Sau khi có được thông tin cá nhân, T in ra giấy giao cho nhân viên giả danh là nhân viên Ngân hàng dùng điện thoại bàn của Công ty (do T trang bị) hoặc điện thoại di động của cá nhân gọi điện cho bị hại giả vờ hỗ trợ vay vốn với lãi suất thấp. Khi bị hại có nhu cầu vay, nhân viên sẽ yêu cầu bị hại nộp trước các khoản phí như: phí bảo hiểm, phí làm hồ sơ vào các tài khoản số 190381X3019 ngân hàng Techcombank của T và số 397X8 ngân hàng OCB của Lê Thị Tuyết N (nhân viên của T do T quản lý, sử dụng) sau đó chiếm đoạt rồi chia tiền như thỏa thuận.

Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2022 đến ngày 10/8/2022, các bị cáo đã cùng nhau thực hiện những vụ lừa đảo như sau:

1. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Lê Thị Th Nguyễn Văn Tr làm thuê cho T từ tháng 3/2022. Ngày 12/3/2022, từ thông tin do T cung cấp, Tr sử dụng điện thoại để bàn số 0X074070 của công ty gọi vào số điện thoại 09142X55 của chị Lê Thị Th sinh năm 1983, chủ cửa hàng mua bán sữa tại đường Hoàng Trung, TDP 7, Tứ Hạ, Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, giới thiệu là nhân viên ngân hàng BIDV. Hỏi chị Th có nhu cầu vay vốn thì hỗ trợ, chị Th đồng ý. Tr yêu cầu chị Th cung cấp hình ảnh chụp 02 mặt CCCD sau đó dùng tài khoản zalo có tên là “Minh Chiến” đăng ký bằng số điện thoại 0563870212 (sim rác) để kết bạn với chị Th. Tr nói với chị Th: muốn được giải ngân thì phải đóng các khoản phí để làm hồ sơ, bảo hiểm. Ngày 14/3/2022, Tr yêu cầu chị Th chuyển 2.810.000 đồng vào tài khoản LẠI NGỌC ĐOAN T số 190381X3019 ngân hàng Techcombank và chụp biên lai gửi cho trường qua zalo. Sau đó Tr tiếp tục yêu cầu chị Th chuyển thêm các loại phí khác như phí nâng điểm, phí đóng băng hồ sơ, phí hủy hồ sơ ... Do tin tưởng nên trong ngày 14/3/2022, chị Th đã nhiều lần chuyển vào tài khoản trên với tổng số tiền 42.768.000 đồng. Tr tiếp tục yêu cầu chị Th chuyển tiền để được giải ngân nhưng chị không tin tưởng nên không chuyển nữa.

Ngày 23/7/2022, biết được các số tài khoản mà Tr cung cấp cho chị Th đang được điều tra, T nói Nguyễn Thị Thanh K1 (sinh năm 1997 trú tại thị trấn C2, huyện C3, tỉnh Đồng Tháp là nhân viên của T) liên hệ với chị Th để trả lại tiền, sau đó Đoan T nói Dương Tấn S (sinh 1991 trú tại B, thành phố Hồ Chí Minh) đem 43 triệu đồng chuyển vào tài khoản do chị Th cung cấp để trả lại.

Tr hưởng lợi 8.900.000 đồng từ số tiền lừa được của chị Th.

02. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Hồ Thị Mỹ N2 Nguyễn Hoàng Trúc L làm thuê cho T từ tháng 02/2022. Ngày 03/3/2022, từ thông tin do T cung cấp, L liên hệ với chị Hồ Thị Mỹ N2 (sinh năm 1990, trú tại thành phố Huế) giả danh nhân viên ngân hàng để tư vấn vay vốn, chị N2 đồng ý vay 20.000.000 đồng. L sử dụng zalo tên “Tây Thi” liên lạc với chị N2 hướng dẫn làm hồ sơ và yêu cầu chị N2 chuyển các khoản phí bảo hiểm, làm hồ sơ, phí nâng hạng, phí mở tài khoản .... vào tài khoản LẠI NGỌC ĐOAN T số 190381X3019 ngân hàng Techcombank. Do tin tưởng nên các ngày 04, 05/3/2022, Chị N2 đã chuyển 03 lần với tổng số tiền 5.800.000 đồng vào tài khoản trên theo yêu cầu. L tiếp tục yêu cầu chị N2 chuyển tiền nhưng chị N2 không chuyển nữa. Sau đó chị N2 nhắn tin, gọi điện để xin lại tiền nhưng không liên lạc được.

Trong số tiền lừa được chị N2, L được hưởng lợi 800.000 đồng sử dụng cá nhân hết.

3. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của chị Nguyễn Thị Bích Th1 Lê Thị Tuyết N làm thuê cho T từ tháng 02/2022. Ngày 11/8/2022, từ thông tin do T cung cấp, N sử dụng điện thoại bàn gọi điện cho chị Nguyễn Thị Bích Th1 (sinh năm 1981, trú tại tổ 30, khu phố 6, phường Đ, thành phố Quy Nhơn) giới thiệu là nhân viên tư vấn ngân hàng, nếu chị cần vay vốn sẽ hỗ trợ, chị Th1 đồng ý vay 20.000.000 đồng. N sử dụng zalo tên là “Th1 Hằng” liên lạc với chị Thủy có tên zalo là “Th1 Nguyễn”. N hướng dẫn chị Th1 làm Hồ sơ vay và yêu cầu chuyển các loại phí để được giải ngân gồm: Phí bảo hiểm, phí nâng hạng, phí mở tài khoản ...vào tài khoản số 397X8 tên Le Thi Tuyet N ngân hàng OCB. Do tin tưởng nên trong ngày 11 và 12/8/2022, chị Th1 đã chuyển 02 lần với tổng số tiền 5.100.000 đồng vào tài khoản trên. Sau đó N tiếp tục yêu cầu chị Th1 chuyển tiền, nghi bị lừa nên chị Th1 không chuyển nữa.

Do chưa đến thời điểm nhận lương, hoa hồng nên N chưa được hưởng lợi từ số tiền lừa được của chị Th1.

* Vật chứng của vụ án:

+ 01 (một) điện thoại di động IPHONE 13 PROMAX, số máy MLL93VN/A, Sê ri F17NDQ0CY6 của Lại Ngọc Đoan T;

+ 01 (một) điện thoại di động IPHONE 13 PROMAX, số máy 3J793V/A, Sê ri Y44WT2PQJP của Nguyễn Văn Tr;

+ 01 (một) điện thoại di động IPHONE 13 PROMAX, số máy MNCY3VN/A, Sê ri JD95LQHP16 của Lê Thị Tuyết N;

+ 01 (một) điện thoại di động IPHONE XS MAX, số máy MT5K2LL/A, Seri C39 XW7DMK PLC của Nguyễn Hoàng Trúc L;

+ 04 điện thoại bàn, màu đen.

+ 02 cuốn sổ ghi chép của Nguyễn Văn Tr, 01 cuốn sổ ghi chép của Nguyễn Hoàng Trúc L và 01 cuốn sổ ghi chép của Lê Thị Tuyết N, bảng hướng dẫn lừa đảo, bảng kê lãi suất của từng gói vay.

+ 43.000.000 đồng.

+ 01 (một) bộ máy tính bàn, gồm 01 CPU (case) nhãn hiệu Vietcom màu đỏ đen, 01 (một) bàn phím nhãn hiệu For the Game màu đỏ đen, 01 (một) màn hình nhãn hiệu “Q” màu đen, 01 (một) con chuột máy tính màu đen.

* Xử lý vật chứng:

Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu bằng hình thức trả lại cho bị hại là chị Lê Thị Th số tiền 43.000.000 đồng.

Đối với các tài sản, đồ vật, tài liệu đã tạm giữ và niêm phong, sau khi mở niêm phong (có biên bản, thống kê kèm theo) Cơ quan điều tra không chứng minh được các đồ vật này liên quan đến vụ án, nên đã ra Quyết định xử lý tài sản, đồ vật, tài liệu bằng hình thức trả lại cho chủ sở hữu.

Đối với các tài khoản: 190381X3019 của ngân hàng Techcombank; số tiền có trong tài khoản là 66.671 đồng; tài khoản: 397X8 của ngân hàng OCB, số tiền có trong tài khoản là 399.171.488 đồng có liên quan trực tiếp đến việc nhận tiền do hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cần tiếp tục phong tỏa để đảm bảo việc khắc phục hậu quả, thi hành án.

Đối với các tài khoản: 668X68 Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Đông OCB, chủ tài khoản LẠI NGỌC ĐOAN T, số tiền: 80.640.823 đồng; tài khoản: 6240205X155, Ngân hàng Agribank, chủ tài khoản LẠI NGỌC ĐOAN T, số tiền: 134.675.995 đồng không liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định hủy bỏ Lệnh phong tỏa đối với 02 tài khoản nêu trên, để trả lại tài sản không liên quan đến vụ án.

* Về dân sự: Bị cáo đã trả lại đủ số tiền chiếm đoạt cho những người bị hại nên họ không có yêu cầu gì thêm.

Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã quyết định:

1. Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự. Tuyên bố: Các bị cáo Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Hoàng Trúc L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm s, b, n khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lại Ngọc Đoan T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm s, b khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Trúc L 15 (mười lăm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về hình phạt đối với các bị cáo khác, phần xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Ngày 18, 21 tháng 9 năm 2023 bị cáo Nguyễn Hoàng Trúc L, Lại Ngọc Đoan T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà nẵng như sau: Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế đã xử phạt bị cáo Lại Ngọc Đoan T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù và xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Trúc L 15 (mười lăm) tháng tù là đúng pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 BLTTHS để bác kháng cáo của bị cáo giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm qui kết. Vì vậy, Hội đồng xét xử đã có cơ sở để kết luận. Trong khoảng thời gian từ tháng 03 năm 2022 đến tháng 8 năm 2022, tại địa chỉ số Y1 đường Y2 khu dân cư P, ấp 5, xã P, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh, Lại Ngọc Đoan T đã cung cấp các trang thiết bị như điện thoại bàn, các dữ liệu cá nhân gồm họ tên, số điện thoại, thỏa thuận mức lương, thưởng đồng thời hướng dẫn cho nhân viên của mình là Nguyễn Văn Tr, Nguyễn Hoàng Trúc L và Lê Thị Tuyết N giả danh nhân viên Ngân hàng dùng điện thoại bàn hoặc điện thoại di động của cá nhân gọi điện giả vờ hỗ trợ vay với lãi suất thấp sau đó chiếm đoạt tiền của chị Lê Thị Th, sinh năm 1983, chủ cửa hàng mua bán sữa tại đường Hoàng Trung, TDP 7, Tứ Hạ, Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế số tiền 42.768.000 đồng; chiếm đoạt của chị Hồ Thị Mỹ N2, sinh năm 1990, trú tại Thủy Biều, thành phố Huế số tiền 5.800.000 đồng; chiếm đoạt chị Nguyễn Thị Bích Th1, sinh năm 1981, trú tại tổ 30, khu phố 6, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn, Bình Định số tiền 5.100.000 đồng. Tổng số tiền mà các bị cáo chiếm đoạt của 03 người bị hại là 53.068.000 đồng.

Do đó án sơ thẩm xử các bị cáo Lại Ngọc Đoan T và Nguyễn Hoàng Trúc L về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, c khoản 2 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Hoàng Trúc L thấy.

Đây là vụ án đồng phạm có tổ chức. Lại Ngọc Đoan T là người cầm đầu, hướng dẫn các bị cáo khác thực hiện việc chiếm đoạt tài sản để chia nhau nên phải chịu trách nhiệm chính. Bị cáo Nguyễn Hoàng Trúc L với vai trò người thực hành tích cực, trực tiếp thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi của các bị cáo trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự, an ninh tại địa phương, vì vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm để giáo dục bị cáo và răn đe kẻ khác. Tòa cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đầy đủ cho các bị cáo. Xử Lại Ngọc Đoan T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù; bị cáo Nguyễn Hoàng Trúc L 15 (mười lăm) tháng tù là không nặng. Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng trình bày do không có tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, nên Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo.

[3] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Hoàng Trúc L. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 74/2023/HS-ST ngày 08 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 174 BLHS.

Tuyên bố: Các bị cáo Lại Ngọc Đoan T, Nguyễn Hoàng Trúc L phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm s, b, n khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lại Ngọc Đoan T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

- Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 174; điểm s, b khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Trúc L 15 (mười lăm) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt giam thi hành án.

3. Án phí HSPT: Bị cáo Lại Ngọc Đoan T và Nguyễn Hoàng Trúc L mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án hôm nay. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

342
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 29/2024/HS-PT về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:29/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;