TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH HẢI, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 29/2022/HS-ST NGÀY 09/08/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 09 tháng 8 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Ninh Haỉ, tỉnh Ninh Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2022/QĐXXST-HS ngày 19/7/2022 đối với bị cáo:
Trần Văn T(Ba Chỉ), sinh năm 1991 tại Ninh Thuận; Nơi cư trú: khu phố A, phường B, thành Phố C, tỉnh Ninh Thuận; Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn B (chết) và bà Nguyễn Thị L; Tiền sự: Không.
Tiền án:
- Ngày 20/8/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Ngày 12/9/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm xử phạt 04 năm tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án là 05 năm 06 tháng tù. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/9/2018.
Nhân thân:
- Ngày 01/8/2012, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường Đông Hải, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại cấp xã, vì nhiều lần thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Ngày 03/6/2022, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xử phạt 06 (sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Trộm cắp tài sản” theo bản án số 69/2022/HSST, ngày 03/6/2022.
- Ngày 22/6/2022, bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước xử phạt 01 (một) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo bản án số 26/2022/HSST, ngày 22/6/2022.
Bị cáo tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ninh Hải - có mặt.
Bị hại: bà Phan Thị Ch, sinh năm 1978 – có mặt.
Nơi cư trú: thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Ninh Thuận.
Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Tuấn C, sinh năm 1990 – vắng mặt.
2. Ông Mai Đức Y, sinh năm 2000 – vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do biết bà Phan Thị Ch, ở thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Ninh Thuận, buôn bán cá bớp và đang sử dụng xe mô tô hiệu Vision biển số 85C1- 265.25 trước đó. Trần Văn T nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của bà Ch bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 8 giờ ngày 07/12/2021, Toàn điện thoại nói dối bà Ch đặt mua 100 con cá bớp, bà đồng ý.
Để tạo lòng tin và thực hiện ý định trên, khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, Toàn điện thoại cho Nguyễn Tuấn C, ở phường Phước Mỹ, thành phố Phan Rang- Tháp Chàm thuê xe ô tô chở T xuống bè cá của bà Ch để chở cá. Sau đó C điều khiển ô tô 85H-001.62 chở Toàn đến bờ kè thôn Khánh Nhơn 1, xã Nhơn Hải gặp bà Ch ra đón, T xuống xe nói chuyện với bà Ch rồi lấy lý do không mang theo thùng đựng cá, đồng thời hỏi mượn xe mô tô hiệu Vision 85C1- 265.25 của bà Ch đi lấy thùng, bà Ch đồng ý. Sau khi lừa lấy được mô tô, T điều khiển chạy ra thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, trên đường đi T mở cốp xe kiểm tra thấy bên trong có 04 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng (loại vàng tây 18K) có trọng lượng 6 chỉ; 01 chiếc lắc đeo tay bằng vàng (loại vàng tây 18K) có trọng lượng 03 chỉ, 02 chiếc điện thoại di động ( gồm 01 điện thoại hiệu Iphone 7 plus, 01 điện thoại hiệu Vivo), 01 giấy đăng ký xe và 01 thẻ căn cước công dân mang tên Phan Thị Ch. Sau đó Toàn bán hết tài sản nhưng không rõ địa chỉ của người mua tại Nha Trang và tiêu xài cá nhân hết, còn giấy đăng ký xe và căn cước công dân T vứt bỏ. Khi biết bị T lừa lấy tài sản, bà Chớt trình báo sự việc cho Công an để giải quyết.
Bản kết luận định giá tài sản số: 04 ngày 26/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ninh Hải kết luận: Xe mô tô hiệu Vision biển số 85C1- 265.25 trị giá 12.000.000đồng.
Bản kết luận định giá tài sản số: 08 ngày 03/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Ninh Hải kết luận:
- 04 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng (loại vàng tây 18K) có tổng trọng lượng 06 chỉ và 01 chiếc lắc đeo tay bằng vàng (loại vàng tây 18K) có tổng trọng lượng 03 chỉ tổng trị giá 34.762.500đồng.
- 01 điện thoại di động Iphone 7 plus, màu hồng trị giá 2.720.000đồng.
- 01 điện thoại di động hiệu VivoI 11 trị giá 900.000đồng.
Tổng giá trị tài sản mà Trần Văn T chiếm đoạt của bà Phan Thị Ch là 50.382.500đồng.
Bị hại Phan Thị Ch yêu cầu bị cáo bồi thường 76.250.000đồng, bị cáo đồng ý, nhưng chưa bồi thường.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng nội dung vụ án đã nêu.
Cáo trạng số 28/CT-VKSNH ngày 04/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Hải, truy tố bị cáo Trần Văn Tvề tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Hải bổ sung thêm tình tiết định khung phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thuộc điểm b khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 03 đến 04 năm tù.
Về phần dân sự: Công nhận thỏa thuận giữa bị cáo với bị hại, cụ thể: bị cáo Trần Văn Tđồng ý bồi thường 76.250.000đồng cho bị hại Phan Thị Ch.
Đối với Nguyễn Tuấn C không biết mục đích T thuê xe đi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác, nên Cơ quan điều tra không xử lý là phù hợp.
Bị cáo không tranh luận; bị cáo nói sau cùng: xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Ninh Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Hải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị hại, nhân chứng và các tài liệu, chứng cứ được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 07 tháng 12 năm 2021, Trần Văn T dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bà Phan Thị Ch gồm: 01 chiếc xe mô tô hiệu Vision biển số 85C1- 265.25 trị giá 12.000.000đồng, 04 chiếc nhẫn đeo tay bằng vàng (loại vàng tây 18K) có trọng lượng 6 chỉ, 01 chiếc lắc đeo tay bằng vàng ( loại vàng tây 18K) có trọng lượng 03 chỉ trị giá 34.762.500đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus, màu hồng trị giá 2.720.000đồng và 01 điện thoại hiệu Vivo I 11 trị giá 900.000đồng, tổng giá trị tài sản mà bị cáo Trần Văn T chiếm đoạt 50.382.500đồng.
Hành vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự theo như Cáo trạng số 28/CT-VKSNH ngày 04/7/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ninh Hải và tại phiên tòa Viện kiểm sát bổ sung thêm tình tiết định khung phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thuộc điểm b khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngày 20/8/2014, bị Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 12/9/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xử phạt 04 năm tù về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án là 05 năm 06 tháng tù. Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 11/9/2018 nhưng chưa được xóa án tích, nay tiếp tục phạm tội nên áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong thời gian rát ngắn từ ngày 25/11/2021 đến 17/01/2022 bị cáo đã 09 lần phạm tội lừa đảo chiếm đạt tài sản mà Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm đã xét xử ngày 03/6/2022 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết định khung phạm tội có tính chất chuyên nghiệp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự.
Bị cáo có tình tiết giảm nhẹ: thành khẩn khai báo quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự.
[4] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm nghiêm trọng đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn làm mất trật tự trị an tại địa phương, nên cần phải xử mức án nghiêm khắc nhằm giáo dục, răn đe bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm.
[5] Về trách nhiện dân sự: bị cáo Trần Văn T đồng ý bồi thường 76.250.000đồng cho bị hại Phan Thị Ch.
[6] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về điều luật áp dụng, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.
[7] Về án phí: Bị cáo Trần Văn Th phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 174, điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn T03 (ba) năm tù.
Áp dụng: Điều 56 Bộ luật hình sự. Tổng hợp mức hình phạt 06 (sáu) năm tù của bản án Hình sự sơ thẩm số 69/2022/HS-ST ngày 03/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận và mức hình phạt 12 (mười hai) tháng tù của bản án hình sự sơ thẩm số 26/2022/HS-ST ngày 22/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận với mức hình phạt 03 (ba) năm tù của bản án này, buộc bị cáo Trần Văn T phải chấp hành hình phạt chung của ba bản án là 10 (mười) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/01/2022.
Về trách nhiện dân sự: Công nhận thỏa thuận giữa bị cáo với bị hại, cụ thể: bị cáo Trần Văn T đồng ý bồi thường số tiền 76.250.000đồng (bảy mươi sáu triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) cho bị hại Phan Thị Chót.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm trả tiền thì phải trả một khoản lãi suất với số tiền chậm trả theo quy định tại Điều 357 và khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Về án phí: Căn cứ điểm a, f khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trần Văn T phải nộp 200.000đồng (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo không phải nộp án phí dân sự sơ thẩm.
Án xử sơ thẩm công khai có mặt bị cáo, bị hại quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 09/8/2022.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 29/2022/HS-ST
Số hiệu: | 29/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Hải - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về