Bản án 24/2024/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK SONG, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 24/2024/HS-ST NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 15/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 16/2024/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện Đ đối với bị cáo:

Nguyễn Văn S, sinh năm 1995, tại tỉnh Ninh Thuận; nơi cư trú: Khu phố 2, phường Đô V, thành phố Phan Rang-Tháp C, tỉnh Ninh Thuận; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B (đã chết) và con bà Nguyễn Thị Bích L, sinh năm 1974; bị cáo có vợ là Võ Thị Giáng N, sinh năm 1992; có 01 con sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt bị tạm giam từ ngày 11-01-2024 – Có mặt.

- Bị hại: Anh Lê Hoàng V, sinh năm 1992; địa chỉ: Số 64/B4 Lý Tự Tr, phường Tân A, thành phố Buôn Ma T, tỉnh Đắk Lắk – Vắng mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị Bích L, sinh năm:

1974; địa chỉ: Khu phố 2, phường Đô V, thành phố Phan Rang-Tháp C, tỉnh Ninh Thuận - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn S là cộng tác viên của Công ty TNHH MTV Tài chính L Việt N (gọi là công ty L) từ tháng 3/2023 đến nay. Công việc của S là tư vấn, hướng dẫn người có nhu cầu vay tín chấp tiền của công ty L và được hưởng lợi nhuận từ số người vay được giải ngân. Để nhiều người biết đến dịch vụ cho vay của công ty L và liên hệ cho S vay tiền, từ tháng 03/2023 đến nay S sử dụng tài khoản Facebook cá nhân của mình là “S Nguyễn” (đường link truy cập là www.Facebook.com/vs77776666666) đăng nhiều bài viết công khai có nội dung công ty L cho vay tín chấp, để được hướng dẫn, làm hồ sơ vay thì liên hệ với S qua số điện thoại 078555xxxx hoặc Zalo tên “S Nguyễn” đăng ký bởi thuê bao 078555xxxx để S tư vấn.

Năm 2022 anh Lê Hoàng V làm lái xe, thu mua nông sản cơ sở An Thịnh tại thôn 7, xã Nam B, huyện Đắk S, tỉnh Đ do chị T làm chủ. Vào khoảng tháng 5/2023, anh Lê Hoàng V thấy bài viết của S đăng trên tài khoản Facebook “S Nguyễn”, do có nhu cầu vay tiền tín chấp nên anh V sử dụng tài khoản Zalo “Lê Hoàng V” của mình nhắn tin, liên lạc với tài khoản Zalo “S Nguyễn” vay tiền tín chấp của Công ty L số tiền 100.000.000 đồng. Sau khi S yêu cầu anh V cung cấp thông tin cá nhân, công việc, thu nhập, tình trạng vay nợ, nợ xấu của anh V thì S biết được anh V đang vay tiền ở một số tổ chức tín dụng, không có khả năng chỉ trả. S thông tin lại cho anh V là không đủ điều kiện vay tiền tín chấp của Công ty L. Nhưng anh V vẫn nhờ S giúp đỡ để vay số tiền 100.000.000 đồng. Lúc này, S đang thiếu tiền chi tiêu cá nhân nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của anh V, S đưa thông tin gian dối sẽ giúp anh V làm thủ tục, hồ sơ để vay được số tiền 100.000.000 đồng và yêu cầu anh V phải đóng khoản phí làm hồ sơ và phí bảo hiểm khoản vay cho công ty L (thực tế 02 khoản phí này không có thật), để tạo niềm tin S dùng tài khoản nhân viên của mình trên app LFVN seller (phần mềm quản lý hồ sơ vay của Công ty L) tạo giả hồ sơ vay của anh Lê Hoàng V chụp ảnh gửi cho anh V xem nhưng thực tế S không tạo lập gửi hồ sơ đăng ký vay cho anh V. Do tin tưởng S có thể giúp V vay được tiền và 02 khoản phí đóng cho công ty L là thật nên vào ngày 20/5/2023 anh Lê Hoàng V sử dụng tài khoản MB Bank của mình là 848477775xxxx chuyển 02 lần với số tiền 5.000.000 đồng, tổng số tiền chuyển khoản là 10.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng số 6888888xxxx của ngân hàng MB bank mang tên Nguyễn Văn S, sau khi nhận tiền S không thực hiện các thủ tục, quy trình lập, làm hồ sơ vay cho anh Lê Hoàng V như hứa hẹn, không chuyển số tiền 10.000.000 đồng về cho Công ty L, mà chiếm đoạt số tiền này, chuyển đến tài khoản MB khác của S là số tài khoản 8666688xxxx, sau đó sử dụng tiêu xài cá nhân hết, đồng thời chặn liên lạc với anh Lê Hoàng V.

Tang vật thu giữ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 pro max có số Serial:M43DHDY4D; Số Emei 1: 357170859355984; Số Emei 2; 357170859286650 gắn sim số 078555xxxx. Kiểm tra điện thoại Iphone 14 pro max của Nguyễn Văn S thể hiện: S đang dùng tài khoản Zalo tên S Nguyễn đăng ký bởi thuê bao 078555xxxx và S đang sử dụng tài khoản mạng xã hội facebook S Nguyễn để đăng nhiều bài viết công khai có nội dung công ty L cho vay tín chấp, để được hướng dẫn, làm hồ sơ vay thì liên hệ với S qua số điện thoại 078555xxxx hoặc Zalo tên “S Nguyễn” đăng ký bởi thuê bao 078555xxxx. Qua tra cứu thông tin hồ sơ vay tín chấp của anh Lê Hoàng V trên hệ thống ứng dụng ứng dụng LFVN seller (phần mềm quản lý hồ sơ vay của công ty L) không thể hiện thông tin hồ sơ của anh V.

Theo quy định của Công ty tài chính L trong quá trình hướng dẫn, kiểm tra, làm hồ sơ, hợp đồng đến trước khi vay vốn ký kết, giải ngân khoản vay cho khách hàng, nhân viên kinh doanh không được phép thu bất kỳ khoản phí, bằng bất kỳ hình thức nào từ khách hàng.

Cáo trạng số 19/CT-VKS ngày 22-3-2024 của Viện trưởng, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đ quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn S về tội:“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Kết quả xét hỏi tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ, tỉnh Đ truy tố bị cáo về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là đúng, không oan. Bị cáo không bào chữa gì chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Kết quả tranh luận tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đ giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo. Sau khi xem xét các chứng cứ buộc tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, căn cứ khoản 1 Điều 174, điểm b điểm i điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S từ đến 09 thang đến 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Lê Hoàng V đã được bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng, nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm và có đơn đề nghị xem xét giải nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận ngày 04/3/2024 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đắk S trả điện thoại Iphone 14 pro max cho bà Nguyễn Thị Bích L chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đăk S, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai, Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Vào khoảng tháng 5/2023 Nguyễn Văn S đã đưa ra thông tin gian dối về việc anh Lê Hoàng V muốn vay tín chấp tiền của Công ty thì phải đóng khoản phí làm hồ sơ và phí bảo hiểm khoản vay cho Công ty là 10.000.000 đồng, do anh V tin tưởng là thật nên vào ngày 20/5/2023 anh V đã chuyển số tiền này vào tài khoản ngân hàng số 6888888xxxx của ngân hàng MB bank mang tên Nguyễn Văn S và S đã chiếm đoạt số tiền 10.000.000, tiêu xài cho bản thân.

Sau khi nhận được số tiền trên, Đức đã tiêu xài cá nhân hết.

Bị cáo là người có đủ tuổi và năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc dùng thủ đoạn gian dối làm cho bị hại tin là thật để giao tài sản cho mình là xâm phạm về quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” [3]. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hinh phaṭ : Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; tình tiết giảm nhẹ, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường cho người bị hại số tiền 10.000.000 đồng; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Bị cáo là người có nhân thân tốt, nơi cư tru ro rang, ổn định, có các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Từ những tình tiết trên Hội đồng xét xử xét thấy không cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội mà xử hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật hình sự cũng đảm bảo được mục đích của hình phạt. Giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú và gia đình có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được bị cáo bồi thường số tiền 10.000.000 đồng và không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.

[5]. Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra xác định, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội dùng điện thoại Iphone 11 Pro, có Emei là 353238101299963, số Serial: F17ZFRQFN6XW, gắn sim số 078555xxxx và 078575xxxx nhưng vào khoảng tháng 7/2023, S làm mất điện thoại này nên mượn điện thoại của bà Nguyễn Thị Bích L (mẹ của S) là Iphone 14 pro max có số Serial: M43DHDY4D; Số Emei 1: 357170859355984; Số Emei 2; 357170859286650 gắn sim số 078555xxxx nên ngày 04/3/2024 Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ trả điện thoại Iphone 14 pro max cho bà Nguyễn Thị Bích L chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

[6]. Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đăk Song tại phiên tòa là có căn cứ, cần chấp nhận.

[7]. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1 Điều 174, điêm b điểm i điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 và khoản 1 khoản 2 Điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn S phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn S 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn S về cho Uỷ ban nhân dân phường Đô V, thành phố Phan Rang-Tháp C, tỉnh Ninh Thuận và gia đình có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân phường Đô V để giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo Nguyễn Văn S đang bị tạm giam, nếu không bị tạm giam về một tội phạm khác.

3. Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk S đã trả 01 Iphone 14 pro max có số Serial: M43DHDY4D; Số Emei 1: 357170859355984; Số Emei 2; 357170859286650 gắn sim số 078555xxxx cho bà Nguyễn Thị Bích L.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Văn S phải nộp 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án; bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 24/2024/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:24/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Song - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;