TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 208/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 198/2021/TLST-HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 1959/2021/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 5316/2021/QĐ-ST ngày 18 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:
1. Ngô Tú T (tên gọi khác: Không); sinh ngày 21/6/1989 tại Thành phố H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: đường T, Phường N, quận T, Thành phố H; chỗ ở: Khu phố B, phường T, Quận L, Thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Ngô Công S2 (chết) và bà Nguyễn Thị Tố N3; có chồng và 02 con cùng sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 24/12/2019; có mặt
2. Phạm Thị C (tên gọi khác: Không); sinh ngày 03/3/1972 tại tỉnh Q; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố I, phường T, Quận L, Thành phố H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 5/12; con ông Phạm T6 và bà Lê Thị B1; có chồng và 03 con, lớn nhất sinh năm 1993, nhỏ nhất sinh năm 2008; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 10/11/2020; có mặt
Người bào chữa cho bị cáo Ngô Tú T: Luật sư Trương Thị Thu H, Văn phòng Luật sư Kim T, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Phạm Thị C: Luật sư Lê Nguyễn Quỳnh T, Văn phòng Luật sư Quỳnh T, Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh; có mặt.
Bị hại:
1. Ông Phan Trường H, sinh năm 1988
Địa chỉ: đường N, Phường J, quận T, Thành phố H;
Tạm trú: đường L, Phường A, quận G, Thành phố H; có mặt.
2. Ông Phạm Phi B, sinh năm 1963
Địa chỉ: đường D, Phường F, quận G, Thành phố H; có mặt.
3. Bà Nguyễn Thị Hồng M, sinh năm 1974
Địa chỉ: khu phố I, phường T, Quận L, Thành phố H; có mặt.
4. Bà Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1976
Địa chỉ: đường HT khu phố C, phường H, Quận L, Thành phố H; có mặt.
5. Bà Trần Thị H1, sinh năm 1970
Địa chỉ: tổ G ấp E, xã Đ, huyện H, Thành phố H;
Tạm trú: tổ O khu phố B, phường T, Quận L, Thành phố H; vắng mặt.
6. Bà Phan Thị T1, sinh năm 1975
Địa chỉ: Ấp B, xã P, huyện C, Thành phố H;
Tạm trú: đường T, khu phố F, phường T, Quận L, Thành phố H; có mặt.
7. Bà Trần Thị Tuyết S, sinh năm 1971
Địa chỉ: đường H tổ M khu phố A, phường T, Quận L, Thành phố H; có mặt.
8. Bà Phan Thị Xuân N1, sinh năm 1984
Địa chỉ: đường L, khu phố G, phường T, Quận L, Thành phố H, có mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Phan Thị Đ, sinh năm 1972
Địa chỉ: ấp B, xã B, huyện H, Thành phố H, vắng mặt.
2. Ông Lê Nhật T2, sinh năm 1979
Địa chỉ: khu phố B, phường Đ, Quận L, Thành phố H, vắng mặt.
3. Ông Huỳnh Trọng T3, sinh năm 1992
Địa chỉ: đường N, Phường L, quận G, Thành phố H, có mặt.
4. Bà Lê Thị Diễm M1, sinh năm 1983
Địa chỉ: đường H, Phường F, quận T, Thành phố H;
Tạm trú: đường T, Phường O, quận P, Thành phố H; có mặt.
5. Ông Phạm Ngọc S1, sinh năm 1995
Địa chỉ: Đường số A, phường T, Thành phố T, Thành phố H; vắng mặt.
6. Ông Trần Công H2, sinh năm 1979
Địa chỉ: ấp Tân Thới C, xã T, huyện H, Thành phố H; vắng mặt.
7. Ông Lê T4, sinh năm 1974
Địa chỉ: khu phố B, phường T, Quận L, Thành phố H; vắng mặt.
8. Ông Lê Văn N2, sinh năm 1962
Địa chỉ: khu phố C, phường T, Quận L, Thành phố H; vắng mặt.
9. Bà Trần Thị T5, sinh năm 1963
Địa chỉ: khu phố C, phường T, Quận L, Thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngô Tú T làm nghề môi giới mua, bán nhà đất, từ cuối năm 2018 đến khoảng tháng 6/2019, lợi dụng việc mua nhà, đất bằng hình thức lập vi bằng về việc giao nhận tiền, không thực hiện qua công chứng theo quy định của pháp luật, để thực hiện hành vi chiếm đoạt, bằng thủ đoạn gian dối, Ngô Tú T thuê Nguyễn Văn M2 và Phạm Thị C giả chữ ký của chủ nhà, giả làm chủ nhà trong các giao dịch mua bán, cụ thể như sau:
Vụ thứ nhất: Năm 2018, ông Phạm Ngọc S1 mua căn nhà tại khu phố G, phường T, Quận L. Khoảng tháng 10/2018 khi biết ông Phạm Ngọc S1 đăng tin bán nhà, Ngô Tú T đồng ý mua với giá 850.000.000 đồng, đặt cọc 100.000.000 đồng, hẹn đến tháng 11/2018 sẽ thanh toán và tiến hành chuyển nhượng. Sau khi ký hợp đồng đặt cọc, Ngô Tú T đến rủ ông Phan Trường H cùng góp tiền mua căn nhà nói trên với giá là 720.000.000 đồng, ông Phan Trường H đồng ý. Ngay sau đó, Ngô Tú T nói với Nguyễn Văn M2 đóng giả là chủ nhà và Phạm Thị C đóng giả là em gái của chủ nhà để hẹn ông Phan Trường H đến giao dịch mua bán nhà.
Ngày 26/11/2018, Ngô Tú T hẹn ông Phan Trường H đến gặp Phạm Thị C và giới thiệu Phạm Thị C là em của chủ nhà, do bận nên chủ nhà nhờ nhận tiền cọc. Ông Phan Trường H giao 100.000.000 đồng và làm giấy tờ đặt cọc mua căn nhà nêu trên với Phạm Thị C. Sau đó, Phạm Thị C đưa trả lại số tiền này cho Ngô Tú T và được Ngô Tú T trả công 1.000.000 đồng.
Sau đó, Ngô Tú T làm giả hợp đồng mua bán tay căn nhà nói trên với nội dung chủ đất là ông Nguyễn Tất Cường đã bán cho Nguyễn Văn M2. Ngô Tú T đem giấy tờ này đến cho Nguyễn Văn M2 ký tên, đóng giả làm chủ nhà, Nguyễn Văn M2 đồng ý và Ngô Tú T hứa sẽ cho tiền công. Ngày 29/01/2019, Ngô Tú T cùng với ông Phan Trường H đến Văn phòng Thừa phát lại Quận 12 lập vi bằng để mua bán căn nhà với giá 01 tỷ đồng. Ông Phan Trường H hùn với Ngô Tú T và đưa tiếp 160.000.000 đồng cho Nguyễn Văn M2. Ngay sau đó, Nguyễn Văn M2 đưa lại cho Ngô Tú T số tiền này và được Ngô Tú T cho 2.000.000 đồng.
Thời gian sau, Ngô Tú T lại tiếp tục muốn chiếm đoạt tiền của ông Phan Trường H nên lấy lý do không muốn tiếp tục mua căn nhà này nữa và để ông Phan Trường H mua. Ông Phan Trường H đồng ý, ngày 28/5/2019 ông Phan Trường H đến Văn phòng Thừa phát lại Quận 12 lập vi bằng giao cho Ngô Tú T 400.000.000 đồng. Để ông Phan Trường H tin tưởng, Ngô Tú T đã ký hợp đồng chuyển nhượng tiếp cho ông Phan Trường H một căn nhà tại phường T, Quận L.
Ngày 03/6/2019, ông Phan Trường H dọn đến căn nhà số 02 tại khu phố G, phường T, Quận L thì mới biết sự thật. Ông Phan Trường H điện thoại hỏi Ngô Tú T về sự việc, Ngô Tú T thừa nhận và viết giấy vay mượn của ông Phan Trường H số tiền 910.000.000 đồng, hẹn ngày 08/6/2019 sẽ trả, nhưng cũng không trả nên ông Phan Trường H trình báo cơ quan công an.
Vụ thứ hai: Cũng bằng thủ đoạn trên, Ngô Tú T kêu Nguyễn Văn M2 giả chủ nhà là ông Trần Công H2 để bán căn nhà tổ D, khu phố F, phường T, Quận L cho ông Phạm Phi B đến xem nhà, đồng ý mua với giá 1.420.000.000 đồng. Ngày 29/3/2019 Ngô Tú T cùng với Nguyễn Văn M2 và bà Phan Thị Đ (là vợ của Nguyễn Văn M2) lập vi bằng nhận đặt cọc 520.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Nguyễn Văn M2 đưa lại số tiền này cho Ngô Tú T và Ngô Tú T cho Nguyễn Văn M2 2.000.000 đồng.
Vụ thứ ba: Tháng 12/2018, ông Lê T4 là chủ sở hữu căn nhà khu phố B, phường T, Quận L nhờ Ngô Tú T môi giới bán. Ngô Tú T môi giới bán cho ông Huỳnh Trọng T3 với giá 800.000.000 đồng. Sau khi mua, ông Huỳnh Trọng T3 đưa toàn bộ giấy tờ căn nhà này cho Ngô Tú T để bán lấy lời. Ngô Tú T lấy lý do để bán được giá cao hơn nên đề nghị ông Lê T4 ký giấy bán nhà cho Ngô Tú T. Sau đó, Ngô Tú T điền thông tin giấy tờ thoả thuận mua bán này nhưng ghi địa chỉ nhà của ông Lê Văn N2 (tại địa chỉ đường T, khu phố B, phường T, Quận L, Thành phố H).
Đến khoảng cuối tháng 9/2019, Ngô Tú T hỏi vay tiền của bà Nguyễn Thị Hồng M 550.000.000 đồng nhưng bà Nguyễn Thị Hồng M yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Ngô Tú T liền đưa bộ giấy tờ căn nhà khu phố B, phường T, Quận L đã sửa chữa thành địa chỉ nhà của ông Lê Văn N2 để thế chấp vay tiền. Ngày 08/5/2019, Ngô Tú T cùng với bà Nguyễn Thị Hồng M đến Văn phòng Thừa phát lại Quận 12 lập vi bằng bán cho bà Nguyễn Thị Hồng M căn nhà của anh Lê T4 có địa chỉ nhà của ông Lê Văn N2 với giá 950.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Hồng M giao cho Ngô Tú T 495.000.000 đồng.
Vụ thứ tư: Tháng 01/2019, ông Lê Văn N2 (là chủ sở hữu căn nhà khu phố B, phường T, Quận L) đăng tin bán căn nhà này trên mạng internet. Ngô Tú T liên hệ và đồng ý mua căn nhà với giá 1.200.000.000 đồng. Để được hưởng số tiền hoa hồng bán nhà và thông tin trên giấy tờ nhà, Ngô Tú T đưa tiền cho Nguyễn Văn M2 giả làm người mua, đến đặt cọc 70.000.000 đồng. Ông Lê Văn N2 photo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và cho Ngô Tú T hưởng 10.000.000 đồng tiền hoa hồng môi giới bán nhà.
Sau khi có được bản photo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Ngô Tú T dùng bộ hồ sơ mua bán nhà đã ký với ông Lê T4 đã sửa địa chỉ nhà của ông Lê Văn N2, tiếp tục sửa tên chủ đất, số thửa, tờ bản đồ cho phù hợp rồi đem giới thiệu bán cho bà Nguyễn Thị Kim N, Trần Thị H1 và Trần Thị Thu mua căn nhà của ông Lê Văn N2 với giá 900.000.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Kim N, Trần Thị H1, Phan Thị T1 tin tưởng nên đã đồng ý mua và giao tiền nhiều lần cho Ngô Tú T vào các ngày 03/5/2019, ngày 04/5/2019 và ngày 04/6/2019 với tổng số tiền là 900.000.000 đồng, để Ngô Tú T ký giấy tờ bán căn nhà nêu trên.
Ngày 07/6/2019 bà Nguyễn Thị Kim N, Trần Thị H1, Phan Thị T1 phát hiện Ngô Tú T có hành vi lừa đảo nên đã trình báo Công an.
Vụ thứ năm: Trong thời gian giao dịch nhằm chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị Kim N, Trần Thị H1 và Trần Thị Phan Thị T1, ngày 03/5/2019 cũng với thủ đoạn tương tự, Ngô Tú T đã lừa bán căn nhà của ông Lê Văn N2 cho bà Trần Thị Tuyết S. Bà Trần Thị Tuyết S đồng ý mua nhà và đã đặt cho Ngô Tú T 130.000.000 đồng, Ngô Tú T hẹn ngày 03/7/2019 hoàn tất các thủ tục mua bán nhưng không thực hiện.
Vụ thứ sáu: Tháng 6/2019 Ngô Tú T biết được thông tin bà Trần Thị T5 môi giới cho ông Trần Văn Hường mua căn nhà khu phố C, phường T, Quận L. Ngô Tú T điện thoại cho bà Phan Thị Xuân N1 nói là chủ nhà bán căn nhà trên giá rẻ, nhưng vì đang đi xa nên rủ chị Phan Thị Xuân N1 cùng mua và nhờ bà Phan Thị Xuân N1 đi đặt cọc. Bà Phan Thị Xuân N1 đồng ý và nói Ngô Tú T hẹn chủ nhà ra Ngân hàng giao tiền, ký giấy đặt cọc. Ngô Tú T liền nói Nguyễn Văn M2 đóng giả chồng của chủ nhà và đưa bản pho to Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà cho Nguyễn Văn M2 đưa cho bà Phan Thị Xuân N1. Ngày 05/6/2019, Ngô Tú T hẹn chị Phan Thị Xuân N1 đến Ngân hàng Sacombank (tại địa chỉ tổ D, khu phố E, phường T, Quận L). Tại đây, bà Phan Thị Xuân N1 ký giấy đặt cọc và giao cho Nguyễn Văn M2 100.000.000 đồng để mua căn nhà của bà Trần Thị T5. Sau khi nhận tiền, Nguyễn Văn M2 mang về giao cho Ngô Tú T, được Ngô Tú T cho 1.000.000 đồng, đã tiêu xài hết.
Đối với hành vi của Nguyễn Văn M2, sau khi phạm tội đã bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Đối với hành vi của bà Phan Thị Đ là vợ Nguyễn Văn M2 ký vào hợp đồng nhận tiền đặt cọc mua bán căn nhà địa chỉ tổ D, khu phố F, phường T, Quận L, bà Phan Thị Đ không biết bị cáo Ngô Tú T thực hiện hành vi lừa đảo nên Cơ quan điều tra không xử lý hình sự là có căn cứ pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 171/CT-VKS-P2 ngày 24/3/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Ngô Tú T, Phạm Thị C về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm a, khoản 4, Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử:
1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm b, g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Ngô Tú T từ 17 năm tù đến 18 năm tù.
2. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 54, Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; xử phạt bị cáo Phạm Thị C từ 07 năm tù đến 08 năm tù.
Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Các bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt là có căn cứ pháp luật.
Đề nghị tịch thu nộp ngân sách 1.000.000 đồng là tiền phạm tội mà có.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Ngô Tú T trình bày:
Luật sư đồng ý với tội danh và điều khoản khung hình phạt của cáo trạng truy tố đối với bị cáo Ngô Tú T. Luật sư chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ để đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi gây ra, khắc phục một phần hậu quả cho bị hại Trần Thị Tuyết S, Phan Thị Xuân N1 mỗi người 20.000.000 đồng và chuyển cho bà Lê Thị Diễm M1 30.000.000 đồng để bồi thường cho bị hại Phạm Phi B. Ngoài ra bị cáo có cha ruột được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến, có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự. Do hoàn cảnh khó khăn dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo, bị cáo có 02 con nhỏ đều sinh năm 2016, có mẹ già hiện nay bị bệnh ung thư tuyến giáp. Từ đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để quyết định mức hình phạt thấp hơn mức hình phạt theo đề nghị của Viện kiểm sát.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Thị C trình bày:
Luật sư đồng ý về tội danh nhưng không đồng ý khung truy tố theo cáo trạng của Viện kiểm sát, bởi lẽ: Theo lời khai của ông Phan Trường H tại phiên tòa xác định khi ký vào giấy nhận cọc đã biết Phạm Thị C chỉ nhận dùm cho chủ nhà là ông Nguyễn Văn M2, bà Thủy, không phải là chủ nhà. Về bản thân, bị cáo biết Ngô Tú T làm nghề môi giới nhà và mua bán nhà, căn nhà giao dịch với ông Phan Trường H là do Ngô Tú T quen Phan Trường H nên không dám lấy tiền hoa hồng của ông Phan Trường H nên nhờ Phạm Thị C nhận dùm tiền cọc, điều này được bị cáo Ngô Tú T xác nhận. Ngô Tú T cũng từng đưa Phạm Thị C đến căn nhà này, Ngô Tú T trực tiếp mở cửa vào nhà nên Phạm Thị C tin tưởng. Trong giấy nhận cọc, Phạm Thị C chỉ xem qua rồi ký, không xem kỹ, điều đó thể hiện về nhận thức pháp luật của bị cáo thấp. Cũng như nội dung cáo trạng nêu bà Phan Thị Đ vợ của ông Nguyễn Văn M2 cũng do không biết hành vi gian dối của Ngô Tú T nên cùng ký với Nguyễn Văn M2 vi bằng nên cơ quan điều tra không xử lý về hình sự đối với bà Phan Thị Đ. Như vậy, hành vi của bị cáo Phạm Thị C cũng giống bà Phan Thị Đ, không có ý thức chiếm đoạt. Viện kiểm sát căn cứ giấy nhận cọc để cho rằng bị cáo Phạm Thị C phải chịu trách nhiệm hình sự với số tiền ông Phan Trường H giao tiếp cho Ngô Tú T 1 lần 160.000.000 đồng và 1 lần 400.000.000 đồng là chưa có cơ sở vững chắc. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét mức án Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo, xem xét bị cáo chỉ là bị hại, đồng thời đề nghị xem xét tội danh đối với Phạm Thị C và xem xét bị cáo chỉ có ý thức chiếm đoạt 100.000.000 đồng tiền cọc của ông Phan Trường H mà bị cáo Phạm Thị C thừa nhận, bị cáo cả tin nên thực hiện hành vi. Ngoài ra, đề nghị áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ như: Lần đầu phạm tội, nhân thân chưa có tiền án, tiền sự, đã cố gắng nộp lại 1.000.000 đồng khắc phục hậu quả.
Các bị cáo đồng ý nội dung bào chữa của các Luật sư, không bào chữa bổ sung.
Kiểm sát viên đối đáp:
Luật sư bào chữa cho bị cáo Ngô Tú T đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự khi cho rằng bị cáo đã bồi thường 70.000.000 đồng, Viện kiểm sát không đồng ý. So với số tiền bị cáo chiếm đoạt quá lớn với số tiền bồi thường là quá nhỏ, không tương xứng nên không thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ này. Ngoài ra Luật sư nêu các tình tiết giảm nhẹ như cha ruột có công, hoàn cảnh gia đình, con nhỏ… Các tình tiết giảm nhẹ Luật sư nêu được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự nên Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm luận tội.
Đối với nội dung bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Thị C:
Bị cáo đã giúp sức tích cực cho Ngô Tú T, giao cho Phạm Thị C giả là em chủ nhà để ông Phan Trường H tin tưởng đặt cọc 100.000.000 đồng và các lần giao tiền tiếp theo tổng cộng là 660.000.000 đồng, bị cáo Phạm Thị C phải chịu trách nhiệm hình sự đối với số tiền này với vai trò đồng phạm, từ đó Viện kiểm sát xét thấy cần áp dụng Điều 54, 58 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo và mức án từ 07 năm tù đến 08 năm tù là đã xem xét toàn diện hành vi cũng như thái độ, hoàn cảnh của bị cáo. Đồng thời hành vi của bị cáo Phạm Thị C do ý thức chủ quan đã rõ ràng giúp sức cho Ngô Tú T như đã phân tích ở trên nên Luật sư cho rằng hành vi của bà Phan Thị Đ giống hành vi của bị cáo Phạm Thị C là không đúng. Từ nhứng phân tích nêu trên, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm đề nghị mức án đối với các bị cáo.
Các Luật sư và Kiểm sát viên Phạm Phi B lưu ý kiến đã trình bày, không tranh luận bổ sung.
Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên: quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Căn cứ lời khai nhận của các bị cáo Ngô Tú T, Phạm Thị C tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa phù hợp vật chứng đã được thu giữ, biên bản bắt người, bản tự khai, biên bản hỏi cung đối với các bị cáo, có đủ cơ sở để kết luận: Lợi dụng việc giao dịch chuyển nhượng mua bán nhà đất qua hình thức lập vi bằng tiền đặt cọc, các bị cáo Ngô Tú T, Phạm Thị C bằng thủ đoạn, sửa chữa thông tin nhà đất trên các giấy chủ quyền nhà pho to, rồi đóng giả làm chủ nhà, em gái chủ nhà tạo sự tin tưởng cho các bị hại để ký hợp đồng nhận tiền đặt cọc, tiền chuyển nhượng của những người mua nhà, chiếm đoạt tiền rồi tiêu xài cá nhân.
Bị cáo Ngô Tú T đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tiền của 08 người gồm: Ông Phan Trường H 660.000.000 đồng; ông Phạm Phi B 520.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Hồng M 550.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Kim N, Trần Thị H1 và Trần Thị Phan Thị T1 900.000.000 đồng (mỗi người 300.000.000 đồng); bà Trần Thị Tuyết S 130.000.000 đồng; bà Phan Thị Xuân N1 100.000.000 đồng. Tổng cộng 2.860.000.000 đồng.
Bị cáo Phạm Thị C đã đóng giả người nhà của chủ sở hữu căn nhà số 702/31/4 đường Lê Văn K, khu phố 7, phường Thới An, Quận 12, nhận số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng của ông Phan Trường H, giúp sức cho Ngô Tú T chiếm đoạt được của anh Phan Trường H số tiền 660.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị C cho rằng chỉ nhận của ông Phan Trường H 100.000.000 đồng, số tiền còn lại ông Phan Trường H đưa cho Ngô Tú T như thế nào bị cáo không biết. Tuy nhiên, theo nội dung giấy nhận cọc đã ghi rõ nhân thân của bị cáo, địa chỉ căn nhà giao dịch, số tiền giá trị căn nhà là 850.000.000 đồng ghi trong giấy nhận cọc rồi nhận đặt cọc 100.000.000 đồng, ngoài ra còn các điều khoản quy định của các bên khi vi phạm cọc. Như vậy bị cáo biết rất rõ việc giả em chủ nhà theo sự chỉ đạo của Ngô Tú T để đứng ra giao dịch với ông Phan Trường H nhận tiền cọc và biết rõ căn nhà không phải của mình nhưng vẫn thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản. Lời khai của bị cáo nại ra để phủ nhận hành vi của mình nên không có cơ sở để chấp nhận.
[3] Hành vi của các bị cáo Ngô Tú T và Phạm Thị C đã phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Hành vi của các bị cáo xâm phạm đến tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội. Tội phạm và hình phạt quy định tại điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Ngô Tú T chiếm đoạt của các bị hại 2.860.000.000 (hai tỷ tám trăm sáu mươi triệu) đồng, bị cáo Phạm Thị C giúp sức cho bị cáo Ngô Tú T chiếm đoạt của bị hại Phan Trường H 660.000.000 đồng. Do đó, đối với các bị cáo cần áp dụng mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ và hậu quả của bị cáo gây ra để răn đe, phòng ngừa tội phạm.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ngô Tú T phạm tội chiếm đoạt tài sản 05 lần trở lên, phạm tội 02 lần trở lên và lấy việc phạm tội làm nguồn sống chính quy định tại điểm b, g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Ngô Tú T, Phạm Thị C thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, bản thân từ trước đến nay chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Ngô Tú T còn có cha ruột được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, mẹ bị cáo hiện bị ung thư, 02 con còn nhỏ sinh năm 2016, hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Bị cáo Phạm Thị C phạm tội với vai trò giúp sức cho bị cáo Ngô Tú T 1 vụ, sau khi chiếm đoạt được Ngô Tú T cho 1.000.000 đồng, bị cáo Phạm Thị C đã nộp lại nên cần xem xét vai trò giúp sức của bị cáo khi lượng hình. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Phạm Thị C có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên áp dụng Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo.
Đối với quan điểm áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo Ngô Tú T điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Hội đồng xét xử thấy rằng: Điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại…” không quy định cụ thể bồi thường bao nhiêu tiền mới được áp dụng. Xét bị cáo Ngô Tú T đã tự nguyện bồi thường mỗi bị hại 20.000.000 đồng nên áp dụng cho bị cáo nhưng so với thiệt hại bị cáo gây ra đặc biệt lớn thì tình tiết giảm nhẹ này áp dụng cho bị cáo có mức độ.
Nhận định trên đây cũng là quan điểm của Hội đồng xét xử đối với các ý kiến tranh luận, đối đáp của các Luật sư và Kiểm sát viên.
[6] Trách nhiệm dân sự: Bị cáo Ngô Tú T đã chiếm đoạt của các bị hại Phan Trường H 660.000.000 đồng; Phạm Phi B 520.000.000 đồng; Nguyễn Thị Hồng M 550.000.000 đồng; Nguyễn Thị Kim N, Trần Thị H1 và Trần Thị Phan Thị T1 900.000.000 đồng; Trần Thị Tuyết S 130.000.000 đồng; Phan Thị Xuân N1 100.000.000 đồng. Nay các bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường, nên buộc bị cáo Ngô Tú T phải bồi thường toàn bộ cho các bị hại. Bị cáo Phạm Thị C không phải bồi thường phần dân sự cho ông Phan Trường H. Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Tú T khai đã bồi thường cho bà Trần Thị Tuyết S 20.000.000 đồng, bà Phan Thị Xuân N1 20.000.000 đồng, lời khai của bị cáo được các bị hại xác nhận nên số tiền bồi thường của bị cáo đối với bà Trần Thị Tuyết S là 110.000.000 đồng, bà Phan Thị Xuân N1 là 80.000.000 đồng.
Tại phiên tòa, bị cáo Ngô Tú T khai đã bồi thường cho bà Lê Thị Diễm M1 (là người đứng ra thay mặt ông Phạm Phi B giao dịch với Ngô Tú T) 30.000.000 đồng trong số tiền 520.000.000 đồng chiếm đoạt của ông Phạm Phi B nhưng ông Phạm Phi B không thừa nhận và bà Lê Thị Diễm M1 cho rằng trước đây Ngô Tú T vay nợ của bà nhiều lần nên số tiền 30.000.000 đồng Ngô Tú T trả nợ, như vậy không có căn cứ xác định Ngô Tú T đã bồi thường số tiền chiếm đoạt của ông Phạm Phi B.
[7] Xử lý vật chứng: Số tiền 1.000.000 đồng do Phạm Thị C giao nộp là tiền phạm tội mà có nên tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm b, g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Ngô Tú T: 16 (mười sáu) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Thời hạn tù tính từ ngày 24/12/2019.
2. Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
Xử phạt bị cáo Phạm Thị C: 07 (bảy) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Thời hạn tù tính từ ngày 10/11/2020.
3. Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 584, 585, 589 của Bộ luật Dân sự:
Buộc bị cáo Ngô Tú T phải bồi thường cho: ông Phan Trường H 660.000.000 đồng; ông Phạm Phi B 520.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Hồng M 550.000.000 đồng; bà Nguyễn Thị Kim N, bà Trần Thị H1 và bà Trần Thị Phan Thị T1 900.000.000 đồng (mỗi người 300.000.000 đồng); bà Trần Thị Tuyết S 110.000.000 đồng; bà Phan Thị Xuân N1 80.000.000 đồng. Tổng cộng 2.820.000.000 (hai tỷ tám trăm hai mươi triệu) đồng.
Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền thì hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chậm thi hành án.
4. Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000 (một triệu) đồng là tiền phạm tội mà có.
(Theo giấy nộp tiền vào tài khoản số 39490905977500000 của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an Thành phố Hồ Chí Minh tại Kho bạc Nhà nước Quận 10 ngày 29/01/2021).
5. Về án phí:
Các bị cáo Ngô Tú T, Phạm Thị C, mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Ngô Tú T phải chịu 88.400.000 (tám mươi tám triệu bốn trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Các bị cáo, đương sự có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 208/2021/HS-ST
Số hiệu: | 208/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về