Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 18/2020/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ M, TỈNH H

BẢN ÁN 18/2020/HS-ST NGÀY 28/04/2020 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã M, mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 19/2020/HSST ngày 13 tháng 4 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2020/HSST - QĐ ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoa X N, sinh năm 1987 - Nơi cư trú: Thôn V, xã Th, huyện B, tỉnh H.

- Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: N.

- Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do.

- Con ông Hoa X L (sinh năm 1943) và bà Trần Thị V (sinh năm 1940).

- Họ và tên vợ: Trần Thị Thu H, sinh năm: 1989.

- Con: có 02 con, lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2017.

- Tiền sự, tiền án: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 19/12/2019. Hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh H. Có mặt tại phiên tòa.

*Người bị hại:

1/ Bùi N X, sinh năm 1983. (vắng mặt) Trú quán tại thôn H, xã Đ, huyện T, tỉnh Th

2/ Đặng Đức Th, sinh năm 1982. (vắng mặt) Trú quán tại thôn Ph, xã Đ, huyện Y, tỉnh H

3/ Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1990. (vắng mặt) Trú quán tại thôn Ph, xã H, huyện N, tỉnh H,

4/ Vũ Kh, sinh năm 1983. (vắng mặt) Trú quán tại thôn K, xã C, huyện C, tỉnh H.

5/ Trần Văn H, sinh năm 1980. (vắng mặt) Trú quán tại tổ 11, phường Ng, quận L, thành phố H.

6/ Nguyễn Hữu Q, sinh năm 1979. (vắng mặt) Trú quán tại Số 67/9 đường 10, phường B, quận B, thành phố H

7/ Mai Anh H, sinh năm 1981. (vắng mặt) Trú quán tại đường Tô Hiệu, phố H, phường H, Quận H, thành phố H

8/ Anh Trần Văn Ng, sinh năm 1985. (vắng mặt) Trú quán tại phố T, phường V, quận H, thành phố H.

9/ Lưu Đức Th, sinh năm 1977(vắng mặt) Trú quán tại tổ dân phố Y, thị trấn Th, huyện B, tỉnh V

10/ Nguyễn Thanh H, sinh năm 1978. (vắng mặt) Trú quán tại thôn H, xã Th, huyện H, tỉnh B

11/ Trần X S, sinh năm 1974. (vắng mặt) Trú quán tại số 61, Thái Học 1, phường Sao Đỏ, thành phố C, tỉnh H.

12/ Nguyễn N Đ, sinh năm 1973. (vắng mặt) Trú quán tại khu phố B, phường B, thành phố S, tỉnh Th.

13/ Trần Quang H, sinh năm 1983. (vắng mặt) Trú quán tại xóm 7, xã Đ, huyện K, tỉnh H.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Phạm Thị H, sinh năm 1991 (vắng mặt) Trú quán tại tổ dân phố R, phường D, thị xã M, tỉnh H.

2/ Ông Hoa X L – sinh năm 1943 (Có mặt)

3/ Trần Thị Thu H – 1989 (vắng mặt)

4/ Hoa X Tr (Vắng mặt) Đều trú quán tại: Thôn V, xã Th, huyện B, tỉnh H.

NỘI DUNG VỤ ÁN Theo các tài hiệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoa X N và chị Phạm Thị H là bạn bè. Khoảng tháng 8 năm 2019, N mượn chị H 01 thẻ rút tiền (ATM) có số tài khoản 059100019xxxx của Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt N chi nhánh H để sử dụng. Sau khi sử dụng xong N trả chị H thẻ ATM nhưng chị H không dùng nên cho N mượn chiếc thẻ nói trên. Do N có phụ giúp gia đình trong việc sửa chữa đồ điện nên hiểu biết về âm ly, loa đài... Sau khi có được thẻ ATM chị H cho mượn, N nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác để lấy tiền tiêu sài.

N sử dụng mạng xã hội Facebook lập nhiều nick như: “Âm thanh bãi”, “Âm thanh Quảng Ngãi”, “Linh Vũ”, “Xứ Bạch Dương”..., sau đó coppy hình ảnh, video các loại loa, âm ly, đài, quạt điện... và một số mặt hàng đồ điện khác đã qua sử dụng để rao bán trên các trang mạng xã hội với mức giá thấp hơn thị trường để nhiều người vào hỏi mua. Tại các bài viết rao bán, N có đăng số điện thoại liên lạc kèm theo, tuy nhiên đây đều là các số thuê bao không đăng ký chính chủ tên N mục đích để sau khi chiếm đoạt được tài sản của các đối tượng N sẽ cắt đứt liên lạc và vứt sim đi. Khi có người hỏi mua, N nói dối về tên, tuổi, địa chỉ của mình và tư vấn, nói chuyện giống như có mặt hàng để bán và yêu cầu người đó trả tiền trước bằng hình thức chuyển khoản hoặc đặt cọc vào tài khoản số 059100019xxxx của chị H. Sau khi nhận được tiền N sẽ chặn liên lạc với người đó và chiếm đoạt số tiền nói trên mà không có hàng để gửi cho họ theo thỏa thuận.

Từ khoảng tháng 9/2019 đến tháng 12/2019, N đã thực hiện các hành vi lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 22.847.800đ. Cụ thể như sau:

- Khoảng đầu tháng 9/2019, khi thấy Facebook “Âm thanh Quảng Ngãi” rao bán các mặt hàng loa, đài, âm ly... đã qua sử dụng, anh Bùi N X liên lạc hỏi mua dàn âm ly loại Pioneer 7600. N và anh X thống nhất dàn âm ly trên giá 1.500.000đ. N yêu cầu anh X chuyển khoản số tiền nói trên vào tài khoản số 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau khi nhận được tiền N sẽ gửi hàng cho anh X qua đường bưu điện. Ngày 09/9/2019, anh X chuyển khoản số tiền 1.500.000đ vào tài khoản nói trên theo đúng thỏa thuận. Sau khi nhận được số tiền trên, N không gửi hàng cho anh X mà chặn facebook, cắt liên lạc với anh X và chiếm đoạt số tiền nói trên.

- Khoảng giữa tháng 9/2019, khi thấy tài khoản facebook “Âm thanh Quảng Ngãi” rao bán các mặt hàng loa, đài, âm ly... đã qua sử dụng. Anh Đặng Đức Th nhắn tin hỏi mua 01 chiếc đài loại Sharp GF777 đã cũ. Quá trình nói chuyện, N và anh Th thống nhất giá chiếc đài trên là 3.500.000đ. N yêu cầu anh Th chuyển khoản trước cho N vào số tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H. Để tạo sự tin tưởng, N giới thiệu tên là D, sinh năm 1971, quê ở huyện Ân Thi, tỉnh H nhưng chuyển vào Quảng Ngãi sống. Ngày 17/9/2019, anh Th chuyển số tiền 3.500.000đ vào tài khoản nói trên cho N, sau đó anh Th tiếp tục hỏi mua 02 chiếc đồng hồ treo tường, 01 chiếc quạt để bàn và 01 chiếc tẩu hút thuốc với tổng số tiền 7.000.000đ. N yêu cầu anh Th chuyển khoản trước khi giao hàng. Ngày 18/9/2019 anh Th chuyển khoản số tiền 7.000.000đ vào tài khoản nói trên. Sau khi nhận được tổng số tiền 10.500.000đ, N cắt liên lạc với anh Th và chiếm đoạt số tiền nói trên mà không có hàng để gửi cho anh Th theo thỏa thuận.

- Tương tự với hành vi và thủ đoạn nêu trên, ngày 23/9/2019 anh Nguyễn Văn Kh liên lạc và thống nhất với N mua 01 chiếc loa 180a với giá 16.000.000đ. Hình thức thanh toán là anh Kh đặt cọc trước số tiền 600.000đ vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau đó N sẽ chuyển hàng cho anh Kh và anh Kh trả nốt số tiền còn lại. Ngày 23/9/2019 sau khi nhận được số tiền 600.000đ của anh Kh, N đã chặn liên lạc với anh Kh và chiếm đoạt số tiền trên.

- Khoảng cuối tháng 9/2019, anh Vũ K liên lạc thống nhất với N mua bộ âm ly Pioneer 7600 với giá 2.000.000đ. Hai bên thống nhất anh K chuyển khoản trước số tiền 700.000đ vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau đó N sẽ chuyển hàng và anh K thanh toán nốt số tiền còn lại. Ngày 24/9/2019, sau khi nhận số tiền trên của anh K, N chặn liên lạc và không gửi hàng cho anh K theo thỏa thuận.

- Khoảng cuối tháng 10/2019, anh Trần Văn H liên lạc thống nhất với N mua bộ đôi loa Infinity SM 120 với giá 1.000.000đ. Hai bên thống nhất anh H chuyển khoản số tiền 1.000.000đ vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau đó N sẽ chuyển hàng cho anh H. Ngày 29/10//2019, sau khi nhận số tiền trên của anh H, N chặn liên lạc và không gửi hàng cho anh K theo thỏa thuận.

- Khoảng cuối tháng 10/2019, anh Nguyễn Hữu Q liên hệ với faebook “A” để hỏi mua âm ly 7800ii. Hai bên thống nhất giá 2.200.000đ và trả tiền trước bằng hình thức chuyển khoản vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H. Ngày 29/10/2019, sau khi nhận được số tiền trên, N đã chặn liên lạc và không gửi hàng, chiếm đoạt số tiền nói trên của anh Q.

- Ngày 02/11/2019, anh Mai Anh H sử dụng facebook “H” nhắn tin cho N với facebook “A” để hỏi mua âm ly 7800ii. Hai bên thống nhất giá 1.500.000đ và anh H chuyển khoản đặt cọc trước 750.000đ vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau đó N chuyển hàng và anh H thanh toán nốt số tiền còn lại. Cùng ngày, sau khi nhận được số tiền 750.000đ của anh H, N đã chặn liên lạc và không gửi hàng, chiếm đoạt số tiền nói trên của anh H.

- Ngày 02/11/2019, anh Trần Văn N nhắn tin cho N với facebook “A” để hỏi mua âm ly 7800ii. Hai bên thống nhất giá 2.000.000đ và anh N chuyển khoản đặt cọc trước 500.000đ vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau đó N chuyển hàng và anh N thanh toán nốt số tiền còn lại. Cùng ngày, sau khi nhận được số tiền 500.000đ của anh N, N đã chặn liên lạc và không gửi hàng, chiếm đoạt số tiền nói trên của anh N.

- Khoảng đầu tháng 11/2019, anh Lưu Đức Th sử dụng facebook “L” liên lạc với facebook “A” của N để hỏi mua đôi loa S90D. Hai bên thống nhất đôi loa trên với giá 2.000.000đ và anh Th chuyển khoản trả tiền trước cho N vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H. Sau đó N sẽ chuyển hàng cho anh Th. Để tạo sự thân mật và niềm tin cho anh Th, N giới thiệu tên là Dương, sinh năm 1974, quê ở H và đang sinh sống ở Đà Nẵng, đồng thời hỏi anh Th về công việc, tiền lương, cuộc sống... Ngày 04/11/2019, sau khi N nhận được số tiền 2.000.000đ trên, N đã cắt liên lạc với anh Th và không gửi hàng cho anh Th, chiếm đoạt số tiền nói trên.

- Ngày 03/11/2019, anh Nguyễn Thanh H1 sử dụng facebook “Nguyen Thanh H1” liên lạc với facebook “A” của N để hỏi mua loa. Hai bên thống nhất đôi loa S90D giá 2.500.000đ và đôi loa S90E giá 1.200.000đ, anh H1 chuyển khoản đặt cọc vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H số tiền 700.000đ, sau đó N gửi hàng cho anh H1 sẽ thanh toán nốt số tiền còn lại. Ngày 04/11/2019, sau khi N nhận được số tiền nói trên của anh H1, N cắt liên lạc và không gửi hàng cho anh H1 như đã thỏa thuận.

- Ngày 08/11/2019, anh Trần X S sử dụng facebook “ S” liên lạc với facebook “Xu Bach Duong” của N hỏi mua âm ly 7800ii. Hai bên thống nhất giá 5.800.000 đồng, anh S chuyển khoản đặt cọc số tiền 300.000đ vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau đó N chuyển hàng và anh S trả nốt số tiền còn lại. Cùng ngày, sau khi nhận được số tiền 300.000đ của anh S, N đã chặn liên lạc và không gửi hàng cho anh S theo thỏa thuận.

- Khoảng đầu tháng 11/2019, anh Trần Quang H, sinh năm 1983, ở xóm 7, xã Đại Cương, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà N, thấy facebook “A” của N có rao bán các loại loa, âm ly... nên hỏi mua âm ly Pioneer 7800ii. Hai bên thống nhất giá 3.000.000đ, anh H chuyển khoản đặt cọc trước 500.000đ vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H, sau đó N chuyển hàng và anh H trả nốt số tiền còn lại. Ngày 10/11/2019, do số tiền trong tài khoản của anh H chỉ còn 497.800đ nên anh H đã chuyển số tiền này cho N. Sau khi nhận được số tiền trên, N đã chặn liên lạc và không gửi hàng cho anh H theo như đã thỏa thuận.

- Ngày 17/12/2019, anh Nguyễn N Đ sử dụng facebook “A Hi End” liên lạc với facebook “Linh Vu” của N để hỏi mua âm ly Y7. Hai bên thống nhất giá 1.600.000đ và anh Đ chuyển khoản trả tiền trước cho N vào tài khoản 059100019xxxx mang tên Phạm Thị H. Ngày 08/12/2019, sau khi nhận được số tiền 1.600.000đ của anh Đ, N chặn liên lạc và không gửi hàng cho anh Đ như đã thỏa thuận.

Toàn bộ sự việc trên sau đó bị phát hiện. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã M thu thập được một số hình ảnh từ camera của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Bình Giang, tỉnh H ghi nhận hình ảnh một người đàn ông đứng rút tiền tại cây ATM của ngân hàng này vào các ngày 04 - 05 - 09 - 11/11/2019. Sau khi được xem hình ảnh nói trên vào ngày 05/11/2019, Hoa X N xác định người đàn ông mặc áo khoác ngoài màu đen, quần kaki sáng màu, đi giày màu đen trong video chính là N đang rút số tiền lừa đảo được từ anh Lưu Đức Th. Đồng thời cho bà Trần Thị Vẻ (mẹ đẻ của N và chị Trần Thị Thu H (vợ của N) xem hình ảnh và video nói trên, bà Vẻ và chị H đều xác nhận người đàn ông mặc áo khoác ngoài màu đen, quần kaki sáng màu, đi giày màu đen đang rút tiền trong video nói trên là Hoa X N.

Quá trình điều tra, Hoa X N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và tự nguyện giao nộp: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 4 màu trắng, imel 866641029445883 bên trong lắp 01 sim; 01 thẻ ATM của ngân hàng Vietcombank loại thẻ Connect, số thẻ 970436680544810xxxx mang tên Phạm Thị H (mở tại ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt N chi nhánh H); 01 thẻ ATM của ngân hàng Agribank loại thẻ Success, số thẻ 970405073309xxxx mang tên Trần Thị Thu H (là vợ của N, mở tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Biển Hồ, tỉnh Gia Lai); 01 sim điện thoại Mobifone trên sim có dãy số 840119032428xxxx.

Hoa X N còn khai: Ngoài những người bị hại như đã nêu trên, N còn lừa đảo chiếm đoạt tài sản của một số người khác (N không nhớ tên tuổi, địa chỉ và giao dịch cụ thể) bằng thẻ ATM của chị H. Đối với những người bị hại này, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã M đã có thông báo truy tìm bị hại và tiếp tục xác minh làm rõ sau.

Đối với tổng số tiền 22.847.800 đồng N lừa đảo chiếm đoạt của những người bị hại như nêu trên, N đã rút và tiêu sài cá nhân hết. Quá trình điều tra, N tác động nhờ gia đình bồi thường cho những người bị hại. Ông Hoa X L (bố đẻ của N) đã bồi thường cho anh Lưu Đức Th số tiền 2.000.000đ, anh Th nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu đề nghị gì. Ông L không yêu cầu N phải trả lại ông số tiền 2.000.000đ nói trên. Các anh Bùi N X, Đặng Đức Th, Nguyễn Văn Kh, Vũ K, Mai Anh H, Nguyễn Thanh H1, Trần X S, Trần Quang H, Nguyễn N Đ, Trần Văn H, Nguyễn Văn N và Nguyễn Hữu Q yêu cầu N phải trả lại các anh số tiền đã chuyển khoản cho N.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 4 màu trắng, qua điều tra xác định là tài sản của N sử dụng vào việc phạm tội. 01 sim điện thoại Mobifone thu giữ là tài sản của N nhưng N không có yêu cầu nhận lại. Đối với những chiếc sim N dùng để lừa đảo những người bị hại, N không nhớ cụ thể từng sim và sau khi chiếm đoạt được tiền của người bị hại xong N đã vứt sim đi nên không thu hồi được.

Đối với 01 thẻ ATM của ngân hàng Vietcombank loại thẻ Connect, số thẻ 970436680544810xxxx mang tên Phạm Thị H, qua điều tra xác định là tài sản của chị Phạm Thị H. Chị H không biết N sử dụng vào việc phạm tội nên không có căn cứ xử lý. Trong thẻ còn số tiền 53.608 đồng, cả chị H và N đều xác định đây là tiền của chị H để duy trì thẻ. Chị H đề nghị được nhận lại chiếc thẻ nói trên.

Đối với 01 thẻ ATM của ngân hàng Agribank loại thẻ Success, số thẻ 970405073309xxxx mang tên Trần Thị Thu H (mở tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Biển Hồ, tỉnh Gia Lai), N khai đã sử dụng tài khoản này và tài khoản số 0291000264906 của Hoa X N mở tại ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt N chi nhánh Bắc Gia Lai để lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng N không nhớ họ tên, địa chỉ cũng như nội dung cụ thể giao dịch với những người này. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã M đã có công văn thông báo cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giải quyết theo thẩm quyền.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKSMH ngày 10 tháng 4 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố bị cáo Hoa X N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1, điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội.

- Vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như đã truy tố.

- Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 điều 174; điểm b, điểm s khoản 1 điều 51; khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; khoản 1 điều 38 Bộ luật hình sự.

- Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo từ 09 tháng đến 01 năm tù. Đồng thời Vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết các vần đề về hình phạt bổ sung; các biện pháp tư pháp; trách nhiệm dân sự và án phí của vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung của vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Mo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại nên hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]/ Về nội dung vụ án, Hội đồng xét xử nhận định:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp khách quan với lời khai của người bị hại, của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, của người làm chứng cùng các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung của bản cáo trạng mà vị đại diện VKS đã nêu và đã có đủ cơ sở kết luận: “ Trong khoảng thời gian từ tháng 09/2019 đến ngày 18/12/2019, Hoa X N đã thực hiện hành vi gian dối bằng cách: coppy các hình ảnh loa, đài, âm ly, đồ điện...... (đã qua sử dụng) rồi đăng bán trên mạng xã hội facebook khiến khách hàng lầm tưởng rằng N có những mặt hàng đó để bán. Với phương thức, thủ đoạn nêu trên, N đã thực hiện 14 hành vi lừa đảo chiếm đoạt tổng số tiền 22.847.800đ của 13 người bị hại, cụ thể: N chiếm đoạt của anh Lưu Đức Th số tiền 2.000.000; anh Bùi N X 1.500.000đ; chiếm đoạt của anh Đặng Đức Th tổng số tiền 10.500.000đ (lần thứ nhất là 3.500.000đ, lần thứ hai 7.000.000đ); anh Nguyễn Văn Kh 600.000đ; anh Vũ K 700.000đ; anh Trần Văn H 1.000.000đ; anh Nguyễn Hữu Q 2.200.000đ; anh Mai Anh H 750.000đ; anh Nguyễn Văn N 500.000đ; anh Nguyễn Thanh H1 700.000đ; anh Trần X S 300.000đ; anh Trần Quang H 497.800đ; anh Nguyễn N Đ 1.600.000 đ”.

Trong vụ án này, mặc dù bị cáo đã 14 lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và chiếm đoạt tổng số tiền 22.847.800đ. Tuy nhiên chỉ có 04 lần giá trị tài sản bị cáo lừa đảo từ 2.000.000đ trở lên. Vì vậy Viện kiểm sát nhân dân thị xã M đã truy tố bị cáo Hoa X N về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 điều 174 Bộ luật hình sự là hoàn toàn chính xác và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm hại trực tiếp đến khách thể là quyền sở hữu tài sản được pháp luật hình sự bảo vệ bảo vệ. Chỉ vì thói quen hưởng thụ muốn có tiền mà không phải lao động, bị cáo đã lợi dụng lòng tin của các bị hại rồi dùng các tài khoản face book giả liên lạc với các bị hại để đăng tin bán các thiết bị điện tử mặc dù biết đó là những thông tin giả. Sau khi các bị hại chuyển khoản tiền cho bị cáo, bị cáo đã chiếm đoạt các số tiền trên để tiêu xài. Hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, gây dư luận xấu, là nỗi lo lắng bất bình trong quần chúng nhân dân; bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần nên bị áp dụng điểm g khoản 1 điều 52 BLHS, vì vậy nay cần phải nghiêm trị đối với bị cáo; đồng thời Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian. Có vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo và cũng là bài học giáo dục phòng ngừa chung cho mọi người.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng cân nhắc: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; sau khi thực hiện tội phạm, bị cáo đã ra đầu thú đồng thời trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các bị hại. Vì vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 điều 51; khoản 2 điều 51 - Bộ luật hình sự.

[3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo là lao động tự do và không có thu nhập ổn định, con của bị cáo còn nhỏ. Để thể hiện sự khoan hồng của Pháp luật, nay Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về vật chứng của vụ án; các biện pháp tư pháp; trách nhiệm dân sự:

- Cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động là công cụ bị cáo đã sử dụng vào việc thực hiện tội phạm.

- Tịch thu cho hủy bỏ 01 sim điện thoại lắp trong chiếc điện thoại di động và 01 sim điện thoại Mobifone trên sim có dãy số 840119032428xxxx.

- Đối với 01 thẻ ATM của ngân hàng Vietcombank loại thẻ Connect, số thẻ 970436680544810xxxx mang tên Phạm Thị H thì chị H đề nghị được nhận lại chiếc thẻ nói nên sẽ trả lại cho chị.

- Đối với 01 thẻ ATM của ngân hàng Agribank loại thẻ Success, số thẻ 970405073309xxxx mang tên Trần Thị Thu H (mở tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Biển Hồ, tỉnh Gia Lai), Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Mỹ Hào đã có công văn thông báo cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai giải quyết theo thẩm quyền. Vì vậy tách ra giải quyết sau nên không đặt ra xem xét giải quyết trong vụ án này.

- Quá trình điều tra, bị cáo tác động gia đình bồi thường thiệt hại. Ông Hoa X L (bố đẻ của N) đã bồi thường cho anh Lưu Đức Th số tiền 2.000.000đ, anh Th nhận đủ số tiền trên và không yêu cầu đề nghị gì. Ông L không yêu cầu N phải trả lại ông số tiền 2.000.000đ nói trên. Vì vậy không xem xét trách nhiệm dân sự của bị cáo đối với ông L và anh Th.

- Quá trình chuẩn bị xét xử, bị cáo đã tác động gia đình tiếp tục bồi thường thiệt lại cho các bị hại. Anh Hoa X Tr là anh trai của bị cáo đã nộp vào Chi cục thi hành án dân sự thị xã Mỹ Hào số tiền 20.847.000đ để khắc phục toàn bộ hiệt hại cho các bị hại gồm anh Bùi N X, Đặng Đức Th, Nguyễn Văn Kh, Vũ K, Mai Anh H, Nguyễn Thanh H1, Trần X S, Trần Quang H, Nguyễn N Đ, Trần Văn H, Nguyễn Văn N và Nguyễn Hữu Q.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 BLTTHS và tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 [1] Tuyên bố: Bị cáo Hoa X N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

[2] Về điều luật áp dụng: Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm b, điểm s khoản 1 điều 51; khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; khoản 1 điều 38 - Bộ luật Hình sự.

[3] Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Hoa X N 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam bị cáo 19/12/2019.

[4] Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng của vụ án và các biện pháp tư pháp:

Áp dụng điểm a,b khoản 1 điều 46; điểm a khoản 1, khoản 2 điều 47; khoản 1 Điều 48 - Bộ luật hình sự; điểm a,c khoản 2 điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự. Khoản 1 Điều 584; khoản 1 Điều 585 Bộ luật dân sự.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi Redmi Note 4 màu trắng imel 866641029445883.

- Tịch thu cho hủy bỏ 02 sim điện thoại.

- Trả lại chị Phạm Thị H 01 thẻ ATM của ngân hàng Vietcombank loại thẻ Connect, số thẻ 970436680544810xxxx mang tên Phạm Thị H.

- 01 thẻ ATM của ngân hàng Agribank loại thẻ Success, số thẻ 970405073309xxxx mang tên Trần Thị Thu H tách ra giải quyết sau.

- Không giải quyết trách nhiệm dân sự giữa bị cáo đối anh Lưu Đức Th.

- Trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo trả lại cho anh Bùi N X 1.500.000đ; anh Đặng Đức Th số tiền 10.500.000đ; anh Nguyễn Văn Kh 600.000đ; anh Vũ K 700.000đ; anh Trần Văn H 1.000.000đ; anh Nguyễn Hữu Q 2.200.000đ; anh Mai Anh H 750.000đ; anh Nguyễn Văn N 500.000đ; anh Nguyễn Thanh H1 700.000đ; anh Trần X S 300.000đ; anh Trần Quang H 497.800đ; anh Nguyễn N Đ 1.600.000đ. Toàn bộ số tiền này được anh Hoa X Tr nộp thay bị cáo tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã M.

- Ghi nhận sự tự nguyện của ông Hoa X L và anh Hoa X Tr không yêu cầu về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo Hoa X N.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết công khai bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

16
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 18/2020/HS-ST

Số hiệu:18/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Miện - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;