Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 144/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TỪ SƠN - TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 144/2022/HS-ST NGÀY 30/06/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 30/6/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 145/2022/TLST-HS ngày 26/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 147/2022/QĐXXST-HS ngày 15/6/2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Lê T, sinh năm 2003; HKTT: Thôn Trại Phúc M, xã Xuân H, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Lê T1, sinh năm 1965 (Đã chết) và con bà Nguyễn Thị T2, sinh năm 1979 (Đã chết); Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Tại Bản án số: 201/2019/HSST ngày 27/12/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt bị cáo 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/02/2022 đến nay. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Ninh (Có mặt).

*Bị hại: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1988 (Có đơn xét xử vắng mặt) Anh Đào Văn K, sinh năm 1987 (Có đơn xét xử vắng mặt). Đều HKTT: Xã Phúc T, huyện Phú X, thành phố Hà Nội.

Cùng chỗ ở hiện nay: Khu phố mới Tiêu Sơn, phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh Dương Hồng T3, sinh năm 1965 (Vắng mặt).

HKTT: Thôn Linh Q, xã Kim S, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội

2/ Anh Phạm Mạnh B, sinh năm 2002 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn Cường T, xã Phú T, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên.

3/ Anh Lý Thanh N, sinh năm 1998 (Vắng mặt).

Địa chỉ: Thôn S, xã Đ, huyện Định Hoá, tỉnh Thái Nguyên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 08/01/2022, tại cửa hàng mua bán xe máy Khánh H của vợ chồng chị Vũ Thị H thuộc khu phố mới Tiêu Sơn, phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Nguyễn Lê T đã có hành vi gian dối chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150, màu xanh xám, biển số 11K1 - X.89 của chị Vũ Thị H. Cụ thể tại cửa hàng Khánh H, T thỏa thuận với chị H là mua chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150, màu xanh xám, biển số: 11K1 - X.89 với giá 23.000.000 đồng. Lúc này T có hỏi chị H muốn đi thử xe thì chị H có hỏi ông T3 về mối quan hệ giữa T và ông T3, khi đó T có nói “đó là chú ruột” và ông T3 cũng thừa nhận khi được chị H hỏi. Sau đó chị H đồng ý cho T đi thử xe, T lên xe đi thử rồi chiếm đoạt chiếc xe.

T sử dụng chiếc xe được khoảng 10 ngày sau bán lại cho anh Phạm Mạnh B với giá là 4.300.000 đồng, số tiền này T đã tiêu xài cá nhân hết. B mua xe của T sử dụng một thời gian bán lại cho anh Lý Thanh N sử dụng. Sau đó, anh N thấy chiếc xe mô tô có nhiều thiết bị hỏng nên đã tháo phụ tùng xe bán cho những người không quen biết. Sau khi sự việc xảy ra biết không thể che dấu được hành vi phạm tội của bản thân nên T đã đến Cơ quan Công an thành phố Từ Sơn đầu thú và thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 05/KL-HĐĐG ngày 24/01/2022 của Hội đồng định giá thường xuyên UBND thành phố Từ Sơn kết luận: Giá trị tài sản của chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150, màu xanh xám, biển số 11K1- X.89, số khung 0610JY624582, số máy G3D4B650507 có giá trị là 21.000.000 đồng.

Quá trình điều tra, cơ quan Công an thu giữ: 01 đôi dép nhãn hiệu Wear a Mask - Save lives của Nguyễn Lê T và 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki màu xanh đã quả sử dụng BKS 29M5-X và 01 đăng ký xe số A050442 mang tên Dương Thị Minh E của ông Dương Hồng T3.

Tại bản Cáo trạng số: 72/CT-VKS-TS ngày 25/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo Nguyễn Lê T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Nguyễn Lê T khai nhận hành vi như nội dung bản cáo trạng đã nêu là đúng. Bị cáo không có việc làm ổn định và do cần tiền tiêu sài cá nhân nên đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. Trưa ngày 07/01/2022 bị cáo thuê xe ôm của ông T3. Trên đường đi bị cáo có nói với ông T3 là muốn mua xe máy và nhờ ông T3 tìm hộ. Sáng ngày hôm sau ông T3 chở bị cáo đến cửa hàng của vợ chồng chị H. Trên đường đi bị cáo có nói dối ông T3 là được bà ngoại cho số tiền 30.000.000 đồng để mua xe và dặn ông T3 nhận làm chú ruột mục đích là để chủ cửa hàng bán xe tin tưởng giao cho bị cáo đi thử nhằm chiếm đoạt chiếc xe mô tô đó. Tại cửa hàng Khánh Hường, bị cáo thỏa thuận mua xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150, biển số 11K1- X.89 của chị H, sau khi nói dối ông T3 là chú ruột thì chị H cho bị cáo đi thử. Bị cáo điều khiển xe mô tô đi thử rồi chiếm đoạt chiếc xe. Bị cáo sử dụng chiếc xe được 10 ngày rồi bán cho anh B được 4.300.000 đồng. Bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết số tiền trên. Khi bị cáo thuê ông T3 bị cáo không nói là đi lừa đảo chiếm đoạt xe và khi bán xe cho B bị cáo không nói là xe do phạm tội mà có. Do nhận thức hành vi của bản thân là vi phạm pháp luật nên tối ngày 15/02/2022, bị cáo đã đến Công an Từ Sơn đầu thú. Bị cáo đồng ý yêu cầu bồi thường của chị H, anh K số tiền 21.000.000 đồng.

Bị hại vợ chồng anh K, chị H được Tòa án triệu tập hợp lệ và có đơn xin xét xử vắng mặt, tuy nhiên lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Anh chị mở cửa hàng bán xe mô tô Khánh Huyền tại khu đất mới Tiêu Sơn. Tháng 11/2021 anh K mua chiếc xe mô tô Yamaha Exciter 150, màu xanh xám, biển số 11K1 - X.89 với giá 24.000.000 đồng. Trưa ngày 08/01/2022 bị cáo T đến hỏi mua xe máy. Sau khi thỏa thuận xong giá bán, bị cáo T xin đi thử và nói ông T3 là chú ruột nên chị H tin tưởng giao xe cho bị cáo T. Đến nay chiếc xe mô tô trên không thu hồi. Trong đơn xin xét xử vắng mặt anh K, chị H đề nghị nên anh chị yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 21.000.000 đồng theo như kết luận định giá tài sản.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Phạm Mạnh B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Khi mua chiếc xe mô tô anh không biết do bị cáo lừa đảo mà có. Anh mua xe mô tô Yamaha Exciter 150, biển số 11K1 - X.89 của bị cáo với giá 4.300.000 đồng, đồng thời sửa chữa hết 6.000.000 đồng. Sử dụng xe mô tô được thời gian anh đã bán cho anh N với giá 10.900.000 đồng. Nay anh không yêu cầu gì đối với bị cáo.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lý Thanh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, lời khai có trong hồ sơ thể hiện: Khi mua chiếc xe mô tô Yamaha Exciter 150, biển số 11K1 - X.89 của anh B anh không biết nguồn gốc do phạm tội mà có. Sau khi sử dụng, anh N thấy chiếc xe mô tô có nhiều thiết bị hỏng nên đã tháo phụ tùng xe bán cho những người không quen biết. Nay anh không có đề nghị gì.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh thực hành quyền công tố và kiểm sát việc xét xử sơ thẩm vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về đề nghị Hội đồng xét xử:

1/ Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Lê T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2/ Về hình phạt và điều luật áp dụng Áp dụng khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê T từ 16 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/02/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

3/ Về trách nhiệm dân sự áp dụng: Điều 48 Bộ luật dân sự; Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự 2015: Buộc bị cáo Nguyễn Lê T phải bồi thường cho anh Đào Văn K, chị Vũ Thị H số tiền 21.000.000 đồng.

4/Về xử lý vật chứng của vụ án áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều X Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép nhãn hiệu Wear a Mask - Save lives.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận tội, không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Từ Sơn; Điều tra viên Công an thành phố Từ Sơn, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Từ Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ có trong hồ sơ vụ án, từ đó có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 08/01/2022, tại cửa hàng mua bán xe máy Khánh Hường thuộc khu phố mới Tiêu Sơn, Phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, bị cáo Nguyễn Lê T đã có hành vi gian dối để chiếm đoạt chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150, màu xanh xám, biển số 11K1 - X.89 trị giá 21.000.000 đồng của anh Đào Văn K, chị Vũ Thị H. Như vậy hành vi của bị cáo Nguyễn Lê T đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, căn cứ vào giá trị tài sản chiếm đoạt Cáo trạng truy tố bị cáo theo khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân nơi xảy ra tội phạm. Vì vậy Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi các bị cáo thực hiện mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thì thấy:

Bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 27/12/2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang xử phạt 15 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản”. Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và ra đầu thú nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Từ những phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xét xử về hành vi trộm cắp tài sản nhưng không lấy làm bài học tu dưỡng rèn luyện bản thân. Qua đây thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo nên cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Về hình phạt bổ sung, xét thấy bị cáo phạm tội với mục đích hưởng thụ cho bản thân, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản riêng nên Hội đồng xét xử áp dụng miễn hình phạt bổ sung phạt tiền là có căn cứ.

[5] Trách nhiệm hình sự: Hiện nay tài sản bị cáo chiếm đoạt là chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter 150, màu xanh xám, BKS: 11K1 - X.89 chưa thu hồi được. Hội đồng xét xử nhận thấy anh K, chị H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 21.000.000 đồng tương ứng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[6] Về vật chứng: Quá trình phạm tội bị cáo sử dụng 01 đôi dép nhãn hiệu Wear a Mask - Save lives, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Suzuki màu xanh đã qua sử dụng biển kiểm soát 29M5-X và 01 đăng ký xe số A050442 mang tên Dương Thị Minh E là tài sản hợp pháp của ông Dương Hồng T3. Khi chở bị cáo và nhận là chú ruột ông T3 không biết bị cáo mục đích để lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên ngày 10/01/2022 Cơ quan điều tra Công an thành phố Từ Sơn trả lại cho ông T3 là phù hợp.

[7] Liên quan trong vụ án đối với ông Dương Hoàng T3 được bị cáo nhờ nhận là chú ruột để bị cáo xem và đi thử xe mô tô, quá trình điều tra xác định ông T3 không biết mục đích của bị cáo là để lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên không xem xét xử lý đối với ông T3 là phù hợp.

Đối với anh Phạm Mạnh B, là người mua chiếc xe mô tô trên của Thuỷ rồi đem bán lại cho anh Lý Thanh N. Anh N sau khi mua xe của B về sử dụng một thời gian thấy xe có nhiều thiết bị đã hỏng nên N đã tháo phụ tùng xe bán cho những người không quen biết. Khi bán xe, Thuỷ nói dối anh B chiếc xe mô tô trên là của T bị mất giấy tờ do tin tưởng nên B đã mua chiếc xe trên. B bán xe cho N, B cũng nói là xe bị mất giấy tờ. B và N đều không biết đó là xe do phạm tội mà có. Do vậy không có đủ căn cứ để xử lý đối với B và N.

Đối với số tiền mà bị cáo được hưởng lợi từ việc bán chiếc xe trên cho anh B nay anh B không yêu cầu do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự, dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo: Nguyễn Lê T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Lê T 16 (Mười sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 15/02/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Áp dụng: Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo công tác thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự, Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự 2015: Buộc bị cáo Nguyễn Lê T phải bồi thường cho anh Đào Văn K, chị Vũ Thị H số tiền: 21.000.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành thì hàng tháng phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015, tương ứng với thời gian chậm thi hành án.

Về xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều X Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép nhãn hiệu Wear a Mask - Save lives.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/5/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Từ Sơn)

Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Buộc bị cáo Nguyễn Lê T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.050.000 đồng (Một triệu không trăm năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án.

Trường hợp bản án có hiệu lực được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 144/2022/HS-ST

Số hiệu:144/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Từ Sơn - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;