Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 12/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VỊ THANH, TỈNH HẬU GIANG

BẢN ÁN 12/2022/HS-ST NGÀY 24/02/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 02 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 04/2022/TLST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng H (tên gọi khác: không), sinh ngày 01 tháng 01 năm 1989, tại Long Mỹ, Hậu Giang; Nơi cư trú: ấp A, thị trấn V, huyện L, tỉnh Hậu Giang; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P và bà Phạm Thị T; có vợ Nguyễn Thị Mộng C (đã ly hôn) và 01 con; tiền án: Ngày 12/5/2016, bị Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chấp hành xong ngày 14/01/2018; Ngày 15/8/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xử phạt 06 tháng tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, chấp hành xong ngày 14/01/2018; Ngày 23/10/2018, bị Tòa án nhân dân quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chấp hành xong ngày 26/02/2021; Ngày 12/11/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm 06 tháng tù về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, chấp hành xong ngày 26/02/2021; tiền sự: không; Bị bắt, tạm giữ ngày 27/10/2021 đến ngày 05/11/2021 chuyển tạm giam đến nay. Có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Đặng Ngươn T, sinh năm: 1972.

Nơi cư trú: khu vực 1, phường VII, thành phố T, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

2. Bà Lê Huỳnh N, sinh năm: 1989.

Nơi cư trú: khu vực 1, phường VII, thành phố T, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án: Bà Nguyễn Thị Mỹ T2, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: ấp 9, xã Vị Trung, huyện Vị T, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Đặng Thủ T3, sinh năm: 1980.

Nơi cư trú: khu vực 1, phường VII, thành phố T, tỉnh Hậu Giang. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Qua mối quan hệ với Lê Huỳnh N, Nguyễn Hoàng H quen biết với Đặng Ngươn T. Nguyễn Hoàng H tự xưng là Trung tá – Phó trưởng phòng cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Hậu Giang. Khi Trạng biết H làm trong ngành Công an nên có ý định nhờ H giúp đỡ trong việc tranh chấp đất đai. Lúc này, Nguyễn Hoàng H nói với Đặng Ngươn T có quen với người làm ở Viện Kiểm sát, Tòa án và Cục thi hành án dân sự tỉnh Hậu Giang, hứa hẹn giúp Trạng lấy lại đất và hứa giải quyết nhanh nên Trạng tin tưởng, khi đòi được đất thì Đặng Ngươn T phải đưa cho Nguyễn Hoàng H 60.000.000 đồng.

Vào chiều ngày 26/10/2021, Nguyễn Hoàng H đến nhà Đặng Thủ T3 là anh ruột của Đặng Ngươn T để lấy một số giấy tờ (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Bản án, quyết định thi hành án). Sau khi nhận hồ sơ, Nguyễn Hoàng H đem hồ sơ bỏ vào thùng rác và không nhờ ai giúp.

Đến khoảng 6 giờ 30 phút ngày 27/10/2021, Nguyễn Hoàng H gọi điện thoại cho Trạng yêu cầu đưa trước 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để lo thủ tục giấy tờ và hẹn gặp nhau tại quán cà phê Ngọc Trâm thuộc khu vực 2, phường VII, thành phố T. Đến khoảng 11 giờ ngày 27/10/2021, tại quán cà phê Ngọc Trâm, Nguyễn Hoàng H vừa nhận 5.000.000 đồng của ông Đặng Ngươn T thì bị Công an thành phố T bắt quả tang.

Trước đó, vào tháng 10/2021, cũng với thủ đoạn như trên, Nguyễn Hoàng H hứa hẹn nhờ bạn công tác tại Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy giúp Lê Huỳnh N làm thủ tục ly hôn sớm và giành quyền nuôi con, để chiếm đoạt số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng). Sau khi nhận tiền và hồ sơ, Nguyễn Hoàng H đã ném bỏ hồ sơ xuống sông, còn tiền để tiêu xài cá nhân.

Vật chứng thu giữ gồm:

- Tiền Việt Nam: 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A 12, màu đen, đã qua sử dụng.

- 01 (một) điện thoại di động bàn phím hiệu Coolpad, màu đen, đã qua sử dụng.

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu cỏ úa có ghi dòng chữ HCKT, đã qua sử dụng.

- 01 (một) chiếc xe mô tô, hiệu Honda, loại Future, biển số 65K1-408.97, màu xanh xám, số khung RLHJC7638KY021219, số máy JC76E-1030494, dung tích 125cc, xe đã qua sử dụng.

Ngày 24/11/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại 5.000.000 đồng cho người bị hại Đặng Ngươn T (Bút lục số 112).

Về trách nhiệm dân sự: Đặng Ngươn T không yêu cầu bị cáo Nguyễn Hoàng H phải bồi thường thiệt hại. Vào ngày 20/12/2021, bà Nguyễn Thị Mỹ T2 (chị ruột bị cáo) đã bồi thường thiệt hại cho Lê Huỳnh N số tiền 2.000.000 đồng (hai triệu đồng).

Tại Bản cáo trạng số 10/CT-VKS-TPVT ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Hậu Giang truy tố bị cáo Nguyễn Hoàng H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hoàng H và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: khoản điểm d khoản 2 Điều 174, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Hoàng H từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Về xử lý vật chứng, trách nhiệm dân sự và án phí: Đề nghị xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng H thừa nhận toàn bộ hành vi mà mình phạm tội như nội dung Cáo trạng đã truy tố và xin Tòa giảm nhẹ hình phạt; Bị hại ông Đặng Ngươn T không yêu cầu bị cáo bồi thường, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết đúng theo quy định pháp luật; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Mỹ T2 không có ý kiến hay yêu cầu gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng:

Trong quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra Công an thành phố T, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt, vắng mặt của những người tham gia tố tụng:

Bị hại bà Lê Huỳnh N và người làm chứng ông Đặng Thủ T3 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt. Xét, việc vắng mặt của người tham gia tố tụng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên căn cứ vào quy định tại Điều 292, 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án. [3] Về tội danh:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hoàng H thừa nhận hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện như cáo trạng đã truy tố. Xét lời trình bày của bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác nên có đủ cơ sở để khẳng định: Bị cáo Nguyễn Hoàng H là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Khoảng 11 giờ, ngày 27/10/2021, bị cáo Nguyễn Hoàng H đã có hành vi tự xưng là Trung tá – Phó trưởng phòng cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Hậu Giang để tạo niềm tin và hứa hẹn giúp đỡ làm hồ sơ tranh chấp đất đai nhằm chiếm đoạt số tiền 5.000.000 đồng của bị hại ông Đặng Ngươn T. Đồng thời, vào tháng 10/2021, cũng với thủ đoạn như trên, Nguyễn Hoàng H hứa hẹn giúp đỡ làm thủ tục ly hôn sớm và giành quyền nuôi con để chiếm đoạt 2.000.000 đồng của Lê Huỳnh N. Tổng số tiền mà Nguyễn Hoàng H lừa đảo chiếm đoạt là 7.000.000 đồng. Theo quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự: “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Tái phạm nguy hiểm;…” Như vậy, bị cáo biết rõ việc lừa đảo chiếm đoạt tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản, đồng thời, bị cáo phạm tội trong trường hợp có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt là tái phạm nguy hiểm nên Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm tài sản theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định pháp luật.

[4] Xét tính nguy hiểm của hành vi:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hành vi của bị cáo không những làm ảnh hưởng đến uy tín của cán bộ công an nói riêng cũng như của các đồng chí cán bộ trên địa bàn tỉnh Hậu Giang nói chung mà còn gây dư luận không tốt đối với việc giải quyết, xét xử tại Tòa án. Do đó, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội, mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích và phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Về nhân thân:

Bị cáo Nguyễn Hoàng H có nhân thân không tốt, đã 04 lần bị xét xử hình sự về cùng nhóm tội chiếm đoạt tài sản, sau khi chấp hành xong bị cáo lại tiếp tục phạm tội. Điều đó chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo rất kém, bị cáo không có khả năng tự cải tạo, giáo dục. Bị cáo đã từng bị xử lý hình sự, được cải tạo, giáo dục nhiều lần nên lẽ ra phải biết lao động, học tập phấn đấu để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

[6] Về tình tiết tăng nặng:

Bị cáo Nguyễn Hoàng H có tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. [7] Về tình tiết giảm nhẹ:

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục thiệt hại. Đồng thời, ông ngoại bị cáo là ông Phạm Văn Lành là liệt sĩ nên áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[8] Từ những phân tích trên, sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, trên cơ sở đối chiếu với quy định của Bộ luật hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo, trở thành người công dân có ích cho gia đình và xã hội. Do đó, mức hình phạt tù mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về vật chứng trong vụ án: Căn cứ vào các điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với vật chứng là 5.000.000 đồng, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả cho người bị hại ông Trạng theo Quyết định xử lý vật chứng số 14 ngày 28/9/2021 (Bút lục số 109) là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với vật chứng là 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda: Quá trình điều tra, xác định được đây là xe bị mất trộm nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội để điều tra theo thẩm quyền (Bút lục số 100) là phù hợp nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A 12, màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động bàn phím hiệu Coolpad, màu đen, đã qua sử dụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định được thuộc quyền sở hữu của bị cáo Nguyễn Hoàng H và có liên quan đến hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 (một) mũ bảo hiểm màu cỏ úa có ghi dòng chữ HCKT, đã qua sử dụng, bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

[10] Về trách nhiệm dân sự: Trong quá trình điều tra, bị hại ông Đặng Ngươn T, bà Lê Huỳnh N đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo Nguyễn Hoàng H phải bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hoàng H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị tạm giữ (ngày 27 tháng 10 năm 2021).

Căn cứ vào Điều 329 Bộ luật tố tụng Hình sự; Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Hoàng H 45 (bốn mươi lăm) ngày để đảm bảo thi hành án. Thời gian tạm giam tính từ ngày tuyên án (ngày 24 tháng 02 năm 2022).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào các điều 46, 47, 48 Bộ luật hình sựĐiều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A 12, màu đen, đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động bàn phím hiệu Coolpad, màu đen, đã qua sử dụng;

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mũ bảo hiểm màu cỏ úa có ghi dòng chữ HCKT, đã qua sử dụng.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 38/QĐ-VKS-TPVT ngày 17/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Hậu Giang).

3. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Hoàng H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Hoàng H, bị hại Đặng Ngươn T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị Mỹ T2 có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Lê Huỳnh N vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

779
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 12/2022/HS-ST

Số hiệu:12/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vị Thanh - Hậu Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;