TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG CỐNG, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 10/2024/HS-ST NGÀY 23/02/2024 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Trong ngày 23 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2024 QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Đỗ Mạnh T, sinh ngày 29 tháng ố năm 1998 tại xà Đ. huyện T, tỉnh Phú Thọ; nơi cư trú: khu A, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đình Q, sinh năm 1978; con bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1978, cả bố và mẹ hiện sinh sống tại xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ; gia đình có 02 anh em, bị cáo là con đầu; bị cáo có vợ là Nguyễn Thị H, sinh năm 2000, hiện sinh sống tại xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ và có 02 con, con lớn sinh năm 2018, con nhỏ sinh năm 2020; Tiền án: Không.
Tiền sự: Ngày 21/01/2022 bị UBND huyện T, tỉnh Phú Thọ xử phạt vi phạm hành chính về hành vi đánh bạc, số tiền 1.500.000 đồng theo Quyết định số 148/QĐ-XPVPHC Nhân thân: - Ngày 11/11/2015 bị Công an huyện T, tỉnh Phú Thọ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Quyết định số 145/QĐ-XPHC - Ngày 28/9/2023 bị Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ xử phạt 06 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Bản án số 42/2023/HS-ST.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/8/2023 đến nay. Hiện nay bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh Thanh Hóa; Bị cáo tạm giam, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: 1. Anh Đặng Ngọc Đ, sinh năm 1989 Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa.
2. Anh Vũ Văn V, sinh năm 1989 Địa chỉ: thôn P, xã M, huyện V, tỉnh Hưng Yên
- Người làm chứng: Chị Phan Thị Kim Y, sinh năm 1999 Địa chỉ: thôn T, xã L, huyện Y, tỉnh Phú Thọ.
Tại phiên tòa vắng mặt anh Đ, anh V và chị Y (Anh Đ và anh V có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do có nhu cầu mua ngô hạt, ngày 13/8/2023 anh Đặng Ngọc Đ (sinh năm 1989, trú tại thôn T, xã T, huyện N, tinh Thanh Hóa) sử dụng điện thoại truy cập vào mạng xã hội Facebook, tên tài khoản “Duc Dang N” đăng tin tìm mua ngô hạt và để lại số điện thoại liên hệ là 0982.084.xxx. Cùng ngày 13/8/2023 Đỗ Mạnh T (sinh năm 1998, trú tại Khu A, xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ) sử dụng trang facebook cá nhân “Đỗ Mạnh T” đọc được bài đăng trên facebook của “Đuc Đang Ngoc” tìm ngô hạt với số lượng lớn, nên T đã tìm hiểu giá bán ngô trên trang mạng. Đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày T dùng số điện thoại 0868.355.xxx gọi đến số điện thoại 0982.084.xxx của anh Đặng Ngọc Đ liên hệ bán ngô hạt, quá trình nói chuyện T biết Đ ở xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, T kết bạn Z lấy tên là “Minh cute” kết bạn với Đặng Ngọc Đ. T thỏa thuận với Đ giá bán ngô hạt là 7.100đ/01 kilogam. Ngày 14/8/2023 T tìm trên trang facebook thi thấy có bài đăng của anh Vũ Văn V (sinh năm 1989, trú tại thôn P, xã M, huyện V, tỉnh Hưng Yên), T tiếp tục sử dụng số điện thoại 0868.355.xxx liên hệ với anh V qua số điện thoại 0902.119.xxx để hỏi mua ngô. Sau khi T kết bạn Z với anh V và thống nhất giá ngô hạt là 8000đ/01 kilogam, thì T liên hệ lại với anh Đặng Ngọc Đ để lấy địa chi nhận hàng, T gửi lại địa chi cho anh V, anh V cho biết là chỉ chở được hai xe tải với tổng số ngô hạt là 14 tấn. T gửi lại vị trí nhận ngô của anh Đ cho anh V và có gọi zalo cho anh V nói là lúc nào gần đến vị trí nhận hàng thi điện thoại để T cho nhân viên ra bốc hàng. T liên hệ lại với anh Đ và gửi số tài khoản 1018752295xx tại ngân hàng V1 mang tên PHAN THI KIM YEN (Phan Thị Kim Y) để sau khi nhận hàng thi anh Đ chuyển khoản cho T. Đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 14/8/2023 anh V chuyển ngô đến nhà anh Đ. sau khi kiểm tra ngô và cân lại, anh Đ sử dụng số tài khoản 3521205145xxx của ngân hàng A mang tên Đặng Ngọc Đ chuyển khoản số tiền 30.000.000đ (Ba mươi triệu đồng). Sau đó anh Đ tiếp tục chuyển tiền từ số tài khoản 033650011xx mang tên Nguyen Thi M (vợ anh Đ) ngân hàng M1 số tiền là 60.000.000đ và 8.000.000đ đến số tài khoản mang tên Phan Thị Kim Y. Sau khi nhận được tiền Phan Thị Kim Y chuyển khoản ba lần tiền đến số tài khoản 2717205180xxx ngân hàng A mang tên Đỗ Mạnh T tổng số tiền 98.000.000đ (Chín tám triệu đồng) (cụ thể: lần 1 số tiền 30.000.000đ, lần thứ hai số tiền 59.800.000đ và lần thứ ba số tiền: 8.000.000đ). Y giữ lại số tiền 200.000đ T cho. Nhận được tiền T xóa zalo và không sử dụng sim số điện thoại đã liên lạc với anh Đ và anh V nên anh V gọi cho T để lấy tiền nhưng không được.
Ngày 22/8/2023 biết mình bị Đỗ Mạnh T lừa nên anh Đặng Ngọc Đ và anh Vũ Văn V đã đến Cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh Thanh Hóa trình báo sự việc.
Ngày 23/8/2023 Đỗ Mạnh T đến Cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh Thanh Hóa đầu thú và khai nhận toàn bộ sự việc phạm tội, đồng thời giao nộp 01 điện thoại di động Iphone 7 plus màu đen.
Ngày 22/9/2023 Cơ quan CSĐT Công an huyện N, tỉnh Thanh Hóa tiến hành trưng cầu giám định đối với chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 7 Plus, số má A1784, số Imei 3591730072395991 màu đen, không gắn thẻ sim, được đựng trong một phong bì giấy, loại phong bì thư, ký hiệu mặt trước là “L”, niêm phong dán kín xung quanh, trên mép dán phong bì có chữ ký của những người tham gia niêm phong gồm Lê Mạnh H1, Nguyễn Duy N1, Trần Tiến D và Đỗ Đình Q đóng 05 dấu đỏ của Công an xã Đ, huyện T, tỉnh Phú Thọ.
Tại Bản kết luận gián định số 3529/KL-KTHS ngày 03/10/2023 của Phòng K Công an tỉnh T kết luận: Không tìm thấy dữ liệu điện tử đã xóa trong một điện thoại di động gửi giám định.
Đối với chị Phan Thị Kim Y (sinh năm 1999, trú tại Thôn T, xã L, huyện Y, tỉnh Phú Thọ) là người T nhờ lấy số tài khoản để nhận tiền hộ, sau đó T cho chị Y số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) để trả công và T nói đó là tiền hàng. Chị Y không biết số tiền nhận chuyển khoản hộ cho T là do phạm tội mà có nên không xử lý đối với chị Phan Thị Kim Y.
* Vật chứng vụ án:
01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 7 Plus, số máy A1784, số Imei 3591730072395991 màu đen đã chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa bảo quản, chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 03/CT-VKS-HS ngày 13/12/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo Đỗ Mạnh T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm c khoản 2 điều 174 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa sơ thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các quy định của pháp luật và tuyên phạt bị cáo cụ thể như sau:
Áp dụng điểm c khoản 2 điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đỗ Mạnh T mức án từ 36 tháng đến 42 tháng tù. Bị cáo đang phải chấp hành bản án hình sự sơ thẩm số 42/2023/HSST ngày 28/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ với mức phạt 06(sáu) tháng tù. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hai bản án đối với bị cáo. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 23/8/2023.
Về bồi thường thiệt hại: Chấp nhận bị cáo đã thực hiện xong việc bồi thường cho bị hại.
Về xử lý vật chứng đề nghị áp dụng điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 7 Plus, số máy A1784, số Imei 3591730072395991 màu đen đã qua sử dụng là phương tiện phạm tội.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Mạnh T thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá hình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong phạm vi Tòa án xét xử đều hợp pháp.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng. Như vậy, đủ cơ sở chứng minh:
Ngày 14/8/2023 Đỗ Mạnh T đã có hành vi gian dối đặt mua của anh Vũ Văn V ở thôn P, xã M, huyện V, tỉnh Hưng Yên 14 tấn ngô hạt với giá 8.000đ/1kg để bán cho anh Đặng Ngọc Đ ở thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa với giá 7.100đ /1kg, khi anh Đ chuyển cho Đỗ Mạnh T số tiền 98.000.000đ thi bị cáo yêu cầu anh Vũ Văn V chuyển ngô đến xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa để giao cho anh Đặng Ngọc Đ. Sau khi chiếm đoạt được tiền, bị cáo đã thay số điện thoại, xóa Zalo để anh V không liên lạc được với bị cáo.
[3] Xét tính chất, hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo:
- Về tính chất vụ án: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì muốn hưởng thụ trên sức lao động của người khác, bị cáo đã bất chấp pháp luật, bị cáo đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của anh Đặng Ngọc Đ với tổng số tiền 98.000.000 đồng. Đây vụ án thuộc loại nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt có giá trị lớn do đó cần phải xử phạt nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và công tác phòng ngừa tội phạm trên địa bàn.
- Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã bị xử phạt hành chính nhiều lần và đang trong thời gian điều tra, truy tố của hành vi phạm tội khác lại tiếp tục phạm tội nên cần phải xét xử bị cáo thật nghiêm minh, tương xứng với hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo mới có thể cải tạo bị cáo thành người có ích cho xã hội.
- Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
Sau khi phạm tội, bị cáo đã ra đầu thú; trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, đã tác động với gia đình để bồi thường toàn bộ thiệt hại cho người bị hại và được người bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt, thuộc trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về hình phạt: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đang phải chấp hành bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, vì vậy cần áp dụng khoản 2 Điều 56 của Bộ luật Hình sự để tổng hợp hình phạt của cả hai bản án là phù hợp với quy định của pháp luật.
[3] Hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[4] Về bồi thường dân sự: Số tiền bị cáo chiếm đoạt đã được gia đình bị cáo bồi thường toàn bộ cho người bị hại và người bị hại không có yêu cầu gì khác, vì vậy chấp nhận bị cáo đã thực hiện xong về nghĩa vụ dân sự.
[5] Về xử lý vật chứng:
Xác định chiếc điện thoại thu giữ của bị cáo đã được sử dụng vào việc phạm tội. Vì vậy cần tịch thu, nộp ngân sách nhà nước là đúng quy định của pháp luật.
[6] Về án phí: Bị cáo Đỗ Mạnh T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 174; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51: khoản 2 Điều 56: Điều 38; khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.
Tuyên bố bị cáo Đỗ Mạnh T phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt: Đỗ Mạnh T 44 (Bốn mươi bốn) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 06(sáu) tháng tù của bản án số 42/2023/HSST ngày 28/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ. Buộc bị cáo phải chấp hành chung cho cả hai bản án là 50(Năm mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (23/8/2023).
2. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận bị cáo đã thực hiện xong việc bồi thường dân sự.
3. Về xử lý vật chứng vụ án: tịch thu nộp ngân sách nhà nước 01 chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 7Plus, số máy A1784, số Imei 3591730072395991 màu đen đã qua sử dụng của Đỗ Mạnh T.
(Chi tiết vật chứng được thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện N, tỉnh Thanh Hóa và Chi cục thi hành án dân sự huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa ngày 14/12/2023)
4. Về án phí: Bị cáo Đỗ Mạnh T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản được niêm yết.
Bản án 10/2024/HS-ST về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 10/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nông Cống - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về