Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 09/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHƯ XUÂN - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 16/03/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Như Xuân xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 69/2021/TLST-HS ngày 21 tháng 12 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 01 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 02/2022/HSST – QĐ Ngày 21/01/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2022/HSST – QĐ ngày 18/02/2022, đối với bị cáo:

Hồ Minh H, sinh ngày 24/02/1984 tại huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: thôn T, xã NT, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hồ Minh Đ và bà Phạm Thị M; Có vợ là Hồ Thị N và 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2009;

Tiền án: 01 - Ngày 19/11/2019 bị TAND Thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách 36 tháng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo bản án số 68/2019/HSST. Bị cáo chưa chấp hành xong thời gian thử thách. Tiền sự: 00; Nhân thân: Tại bản án số 35/HSST ngày 24/6/2002 bị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù giam về tội Cố ý gây thương tích. Đã được xóa án tích. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ từ ngày 07/10/2021 đến ngày 10/10/2021. Từ ngày 10/10/2021 được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay. Có mặt.

Bị hại:

1. Anh Phạm Văn Ph - Sinh năm 1987.

Địa chỉ: thôn D, xã T1, Huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa.

Trước đây là: thôn R, xã T1, Huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Tại phiên tòa anh Phạm Văn Ph có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 18/6/2020, sau khi tìm kiếm trên mạng xã hội facebook thì Hồ Minh H, sinh năm 1984 ở thôn T, xã NT, huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An biết được một tài khoản facebook có tên “Điện máy PH” chuyên bán các đồ điện tử, điện lạnh do anh Phạm Văn Ph, sinh năm 1987 ở xã T1, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hoá làm chủ. Do nảy sinh ý định lừa đảo từ trước, H đã chủ động sử dụng một tài khoản facebook “rác” do mình lập ra mang tên “Nguyễn Thành Đ” để nhắn tin qua ứng dung Messenger với anh Ph và đặt mua: Một máy lọc nước Daisy trị giá 3.600.000đ, một quạt hơi nước Daichi trị giá 2.500.000đ, một bếp gas nhãn hiệu Paloma trị giá 2.700.000đ và một bếp hồng ngoại Tansuto trị giá 850.000đ. Tổng giá trị của số hàng hoá trên là 9.650.000đ (Chín triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Đến ngày 19/06/2020, sau khi thống nhất giá các sản phẩm, H sử dụng số điện thoại sim rác là 0928.081.876 để liên hệ với nhà xe T2 chạy tuyến Hà Nội - Nghệ An và cung cấp số điện thoại nhà xe để anh Ph liên hệ gửi hàng. Để tạo lòng tin nhằm thực hiện hành vi lừa đảo, H nói dối mình làm việc tại nhà máy gỗ TN thuộc xã B, huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hoá và sẽ nhận hàng tại đây, sau khi nhận hàng H sẽ thanh toán. Cùng ngày anh Ph đã gửi số hàng trên cho nhà xe T2 cùng một hoá đơn bán hàng. Đến khoảng hơn 15 giờ cùng ngày, H liên hệ với nhà xe và yêu cầu nhận hàng tại nhà máy gỗ S (cách nhà máy TN 500m), đồng thời anh Ph cung cấp tài khoản ngân hàng để H chuyển tiền. Lúc này, H liên hệ với một người ở trên facebook để làm giả Giấy nộp tiền của ngân hàng Agribank Như Xuân, sau khi người đó chụp và gửi hình ảnh giấy nộp tiền cho H thì bị cáo sử dụng hình ảnh gửi cho anh Phương để lấy hàng. Khi nhà xe T2 giao hàng, H đã liên hệ với anh Ph để xác nhận với nhà xe mình đã thanh toán và chỉ phải trả tiền cước xe. Sau khi bàn giao số hàng trên cho H anh Ph vẫn không thấy tiền vào tài khoản ngân hàng của mình, anh Ph đã liên hệ với H nhiều lần nhưng đều bị H né tránh việc thanh toán, vài ngày sau thì H đã chặn mọi liên hệ qua facebook và số điện thoại với anh Ph để chiếm đoạt số hàng hoá trên nên anh Ph đã đến Công an huyện Như Xuân trình báo sự việc.

Nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên vào lúc 13 giờ 30 phút ngày 07 tháng 10 năm 2021 bị cáo đã đến cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện như Xuân xin đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Căn cứ vào kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 29/KL – ĐGTS Ngày 10/07/2020 của Hội đồng định giá tài sản của UBND huyện Như Xuân kết luận:

- 01 (Một) quạt điều hòa hơi nước nhãn hiệu DAI CHI, mã sp: HA – 8600. Kích thước 650 x 450 x 1110 mm, màu ghi xám, lồng quạt có màu xanh sẫm – chưa qua sử dụng có giá 2.500.000 đồng.

- 01 (Một) máy lọc nước DAISY, màu xanh, mã SP: IR 04.0 SMARTKING – chưa qua sử dụng có giá 3.600.000 đồng.

- 01 (Một) Bếp ga nhãn hiệu paloma Nhật Bản, mã SP: PA – 7MEJ màu đen – chưa qua sử dụng. Có giá 2.700.000 đồng.

- 01 (Một) Bếp từ Hồng ngoại BESUTO viền vàng – Chưa qua sử dụng. Có giá 850.000 đồng.

Tổng giá trị tất cả các tài sản trên là: 9.650.000 đồng (Chín triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng).

Vật chứng của vụ án:

Thu giữ 01 (một) quạt điều hòa hơi nước nhãn hiệu Daichi màu xám trắng, vỏ làm bằng nhựa, kích thước rộng dài cao lần lượt là 650 x 450 x 1110cm. Hiện đang được bảo quản tại Chi cục Thi hành án dân sự Hện Như Xuân chờ xử lý.

Đối với số thuê bao 0928081876 mà H đã sử dụng để liên hệ với anh Phạm Văn Ph và nhà xe T2, H khai nhận đây là thuê bao rác mua ở một cửa hàng sim và không nhớ địa chỉ ở đâu. Qua xác minh, số thuê bao này thuộc sở hữu của chị Lê Thị T3, Sinh năm 1989 ở xã PT, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghê An. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Như Xuân đã tiến hành uỷ thác điều tra cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An để làm việc với Lê Thị T3. Tuy nhiên, T3 cho biết bản thân là người kinh doanh sim thẻ điện thoại nên có sử dụng thông tin của mình để đăng kí chủ thuê bao sau đó bán cho khách, sau khi mua về khách hàng sẽ tự động thay đổi thông tin sở hữu và không quen biết với ai tên Hồ Minh H. Vì vậy, không có căn cứ để xử lý đối với Lê Thị T3.

Đối với số tài sản sau khi lừa đảo được của anh Ph, như Máy lọc nước, bếp từ và bếp gas, H đã mang đi công trường xây dựng để sử dụng. Tuy nhiên, do đã lâu và để ngoài nắng mưa nên đã bị hỏng và bản thân H không nhớ vứt bỏ ở đâu, chỉ biết công trình đó thuộc địa phận tỉnh Nghệ An nên không có căn cứ xác định nhằm truy tìm và thu giữ.

Đối với chị Hồ Thị N là vợ của Hồ Minh H, toàn bộ hành vi phạm tội H chỉ thực hiện một mình, không bàn bạc và không nói cho ai biết. Chỉ khi đi khỏi địa phương thì H mới liên lạc về để nhờ chị N (vợ bị cáo) liên hệ với bị hại nhằm bồi thường thiệt hại cho bị hại là anh Phạm Văn Ph. Vì vậy, không có căn cứ để xử lý đối với chị Hồ Thị N là phù hợp.

Đối với người mà Hồ Minh H đã liên hệ để làm tờ Giấy nộp tiền của ngân hàng Agribank và gửi hình ảnh cho H, Bị cáo không quen biết với người này, toàn bộ việc trao đổi thông tin đều sử dụng tài khoản facebook nhắn tin nhưng H không nhớ tên facebook. Vì vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Hện Như Xuân có trách nhiệm tiếp tục xác minh nếu có căn cứ sẽ xử lý theo quy định.

Đối với chiếc điện thoại sử dụng để đăng nhập tài khoản facebook Nguyễn Thành Đ và điện thoại lắp sim số 0928081876 H sử dụng để thực hiện hành vi lừa đảo. Sau khi thực hiện xong do sợ bị cơ quan công an phát hiện nên H đã vứt bỏ và không nhớ vứt ở đâu nên không có căn cứ để truy tìm và thu hồi.

Trách nhiệm dân sự: Hồ Minh H và gia đình đã tự nguyện bồi thường về dân sự cho anh Phạm Văn Ph số tiền 9.650.000đ (Chín triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Anh Phạm Văn Ph không có yêu cầu gì thêm.

Bản cáo trạng số: 05/CT-VKSNX ngày 21/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân truy tố Hồ Minh H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Hồ Minh H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt, không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi của bị cáo Hồ Minh H đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Minh H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 56; khoản 5 Điều 65; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Minh H với mức án từ 09 đến 12 tháng tù.

Ngoài ra, Viện kiểm sát còn đề nghị xử lý vật chứng và buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì.

Lời nói sau cùng: Bị cáo H xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Như Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Như Xuân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xuất phát từ động cơ chiếm đoạt tài sản, bằng việc lập ra một tài khoản facebook “rác” mang tên “Nguyễn Thành Đ” nhằm mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hồ Minh H đã Sử dụng các thủ đoạn gian dối, chiếm đoạt của anh Phạm Văn Ph, sinh năm 1987 ở xã QT, huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hoá số hàng hóa gồm: một máy lọc nước Daisy trị giá 3.600.000đ, một quạt hơi nước Daichi trị giá 2.500.000đ, một bếp gas nhãn hiệu Paloma trị giá 2.700.000đ và một bếp hồng ngoại Tansuto trị giá 850.000đ vào ngày 19/06/2020. Tổng giá trị số hàng hóa trên là 9.650.000 đồng (Chín triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng). Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, phù hợp với nội dung của bản cáo trạng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Bị cáo Hồ Minh H là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi dùng thủ đoạn gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tài sản là trái pháp luật, trái đạo đức xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sở hữu tài sản của bị hại, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, hành vi của bị cáo H đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 của BLHS. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát là hoàn toàn chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ hành vi và hậu quả: Bị cáo Hồ Minh H là thanh niên có sức khỏe nhưng không chịu lao động, làm ăn chân chính, mà lại dùng thủ đoạn gian dối, lợi dụng sự tin tưởng của người bị hại để lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo không những trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người bị hại mà còn gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Hồ Minh H có nhân thân xấu, năm 2002 bị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù giam tại bản án số 35/HSST ngày 24/06/2002 về tội Cố ý gây thương tích. Đã được xóa án tích. Tiền án: 01- Ngày 19/11/2019 bị TAND Thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An xử phạt 18 tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách 36 tháng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo bản án số 68/2019/HSST. Bị cáo chưa chấp hành xong thời gian thử thách. Bị cáo lại tiếp tục phạm tội với lỗi cố ý do đó bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ Luật Hình Sự.

Nhưng sau khi phạm tội bị cáo H đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, tỏ thái độ ăn năn hối cải về lỗi lầm đã phạm, bị cáo đã cùng với gia đình khắc phục hậu quả bồi thường cho người bị hại, người bị hại không có yêu cầu gì về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 BLHS. Mặt khác sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện bị cáo đã ra đầu thú. Do đó bị cáo còn được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 BLHS. Ngoài ra trong quá trình sinh sống tại địa phương, bị cáo cùng với gia đình đã tích cực tham gia đóng góp ủng hộ về vật chất và tinh thần cho địa phương trong việc phòng chống dịch bệnh covid 19, bản thân bị cáo H có bác ruột là Liệt sĩ.

Xét tại bản án số 68/2019/HSST Ngày 19/11/2019 của TAND Thị xã Thái Hòa, tỉnh Nghệ An đã xử phạt bị cáo Hồ Minh H mức án 18 tháng tù cho hưởng án treo với thời gian thử thách 36 tháng về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Bị cáo đang trong thời gian thử thách án treo thì lại tiếp tục phạm tội mới và bị xử phạt, nên Căn cứ vào khoản 1 Điều 7 Nghị quyết số 02/2018/NQ – HĐTP Ngày 15/05/2018 cần chuyển 18 tháng tù cho hưởng án treo thành 18 tháng tù giam và áp dụng điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án.

[6] Về hình phạt: Do bị cáo Hồ Minh H có tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã nêu ở trên, nên khi quyết định hình phạt cần xem xét lên cho bị cáo một mức hình phạt tương xứng nhất định đủ sức răn đe giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, nhưng đồng thời cũng xem xét giảm một phần hình phạt chính để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật, yên tâm cải tạo sớm trở thành công dân tốt cho xã hội.

[7] Xét hành vi phạm tội của bị cáo H là ít nghiêm trọng; Bản thân bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, mẹ già yếu, con còn nhỏ, có xác nhận hoàn cảnh khó khăn của địa phương nên không áp dụng hình phạt bổ sung (là phạt tiền) đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật hình sự.

[8] Về các vấn đề khác:

[8.1] Trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Phạm Văn Ph không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8.2] Về vật chứng:

01 (một) quạt điều hòa hơi nước nhãn hiệu Daichi màu xám trắng, vỏ làm bằng nhựa, kích thước rộng dài cao lần lượt là 650 x 450 x 1110 cm. Đây là tài sản bị cáo lừa đảo nhằm chiếm đoạt của người bị hại. Xác định đây là tài sản hợp pháp của người bị hại đã bị bị cáo chiếm đoạt, cần trả lại cho người bị hại là phù hợp.

[8.3] Án phí: Bị cáo H bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8.4] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 174; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 56; Khoản 5 Điều 65; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào: khoản 2 Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 135; Khoản 2 Điều 136; Điều 106; Điều 331; Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23; Điều 6 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Tuyên bố: Bị cáo Hồ Minh H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Minh H 11 (Mười một) tháng tù; Tổng hợp với hình phạt 18 (Mười tám) tháng tù của bản án số 68/2019/HSST ngày 19/11/2019 của Tòa án nhân dân Thị Xã Thái Hòa tỉnh Nghệ An. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 29 (Hai mươi chín) Tháng tù. Được trừ đi 03(Ba) ngày tạm giữ (từ 07/10/2021 đến 10/10/2021) và trừ đi 06(Sáu) ngày tạm giữ từ ngày (24/08/2019 đến ngày 30/08/2019) của bản án số 68/2019/HSST Ngày 19/11/2019. Do đó bị cáo H còn phải chấp hành là 28 (Hai mươi tám) tháng 21(Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Vật chứng: Trả lại cho người bị hại là anh Phạm Văn Ph 01 (một) quạt điều hòa hơi nước nhãn hiệu Dai Chi màu xám trắng, vỏ làm bằng nhựa, kích thước rộng dài cao lần lượt là 650x450x1110cm. theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số:14/2022/TSTV ngày 10/01/2022 giữa Công an huyện Như Xuân và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Như Xuân.

Án phí: Bị cáo Hồ Minh H phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Như Thanh - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;