Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 05/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 05/2022/HS-ST NGÀY 26/01/2022 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 06/2022/TLST-HS ngày 13 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo:

Phùng Văn C; sinh ngày 26 tháng 10 năm 1987, tại Hải Phòng. Nơi cư trú: Đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phùng Văn P và bà Nguyễn Minh T; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 03/11/2021; có mặt.

- Bị hại: Anh Đặng Đức T, sinh năm 1986; nơi cư trú: Đường A, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn D; vắng mặt;

+ Anh Nguyễn Văn T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 14/10/2021, Phùng Văn C gặp bạn là Đặng Đức T đang điều khiển xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30 đi tại khu vực ngõ gần nhà C. T rủ C cùng đi đến nhà ông Vũ Thanh T để đi bắt gà chọi hộ T, C đồng ý. C lên xe T chở đi. Sau khi C ngồi sau xe của T đã nảy sinh ý định mượn xe mô tô của T để mang đi cầm cố lấy tiền chơi điện tử “bắn cá”, C biết trong cốp xe của T có giấy tờ xe dễ cầm cố. Khi T chở C đến ngõ nhà ông T thì C hỏi mượn xe mô tô của T, C nói mượn xe để đi đến chỗ làm ở khu vực hồ An Biên một tý về trả, T đồng ý và giao chìa khóa xe cho C mượn xe. Sau khi C mượn được xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30 thì C tắt máy điện thoại nên T không liên lạc được với C, rồi C điều khiển xe đi thẳng đến quán cầm đồ của ông Nguyễn Văn D; tại địa chỉ: Đường D, phường D, quận L,thành phố Hải Phòng cầm cố lấy 5.000.000 đồng chơi điện tử hết. Sau khi T bắt gà xong ra đợi mãi không thấy C quay lại trả xe, nên T đi bộ về nhà. C quay lại quán cầm đồ vay thêm của ông Dũng 5.000.000 đồng, ông Dũng trừ 100.000 đồng tiền lãi vay còn đưa cho C 4.900.000 đồng. C chơi điện tử đến rạng sáng ngày 15/10/2021, thì nhắn tin qua zalo (bằng máy tính của quán) cho anh T nói dối là xe bị công an giữ, C hẹn anh T đến 08 giờ ngày 15/10/2021 thì C mang xe về trả cho anh T. Chơi điện tử hết tiền C đến Cửa hàng cầm đồ Nghĩa Linh gặp anh Nguyễn Văn N; địa chỉ đường Nguyễn Bình, phường Đồng Quốc Bình, quận Ngô Quyền, Hải Phòng xin cầm cố xe mô tô trên với số tiền 12.000.000 đồng, anh N đồng ý. C và anh N đi đến quán cầm đồ của ông Dũng, N đưa trả ông Dũng 10.000.000 đồng tiền chuộc xe thay cho C rồi mang xe mô tô BKS: 15B2-714.30 về quán của mình. Anh N đưa nốt cho C 2.000.000 đồng tiền cầm cố xe, C tiêu xài cá nhân hết tiền thì bị lực lượng công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng kiểm tra hành chính đã đưa C về trụ sở làm việc.

Ngày 15/10/2021, sau khi anh Đặng Đức T phát hiện bị C lừa đảo chiếm đoạt xe mô tô BKS15B2-714.30, anh T trình báo Công an phường Đằng Giang, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

Ngày 17/10/2021, anh Nguyễn Văn N tự nguyện đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng giao nộp chiếc xe mô tô Honda Air Blade BKS15B2-714.30 và giấy đăng ký xe.

Tại cơ quan điều tra Phùng Văn C khai nhận: Trước đó, C còn mang chiếc máy tính lap - top nhãn hiệu Acer màu đen của bà Nguyễn Minh H (là bác của C) và xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B1-847.23 của anh Phùng Văn D (anh trai của C) đi cầm cố lấy tiền chơi điện tử hết, nhưng bà Hiền và anh Dũng thống nhất để cho C sẽ chuộc về trả sau không yêu cầu Cơ quan Công an giải quyết.

- Vật chứng vụ án: 01 chiếc xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30, 01 giấy đăng ký xe, 01 căn cước công dân, 01 ví da màu nâu mặt trước ví có chữ “Polo mesido” là tài sản và giấy tờ tùy thân của anh Đặng Đức T. Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh T quản lý sử dụng; 01 Hợp đồng cầm đồng cầm đồ thế chấp xe mô tô BKS 15B2-714.30 kèm theo hồ sơ vụ án; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel của bị cáo C.

- Về trách nhiệm dân sự: Anh Đặng Đức T đã nhận lại xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30, 01 giấy đăng ký xe, 01 căn cước công dân, 01 ví da màu nâu mặt trước ví có chữ “Polo mesido”, anh T không yêu cầu C bồi thường gì thêm. Đối với số tiền 12.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn N bị cáo C đã tác động gia đình trả lại anh N đầy đủ, anh N không yêu cầu gì thêm.

Tại Kết luận định giá tài sản số 65 ngày 18/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản - Ủy ban nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng kết luận: Đến thời điểm bị xâm hại xe mô tô Honda Air Blade BKS15B2-714.30 có giá 26.000.000 đồng.

Tại Bản Cáo trạng số 17/CT-VKS ngày 11/01/2022 Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Phùng Văn C về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Phùng Văn C khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện việc Lừa đảo chiếm đoạt tài sản xe mô tô Honda Air Blade BKS15B2-714.30 của anh Đặng Đức T có giá 26.000.000 đồng.

Bị hại anh Đặng Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, đã được công bố lời khai có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Anh Đặng Đức T đã nhận lại xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30, 01 giấy đăng ký xe, 01 căn cước công dân, 01 ví da màu nâu mặt trước ví có chữ “Polo mesido”, anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn Dũng, anh Nguyễn Văn N vắng mặt tại phiên tòa, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ, đã được công bố lời khai phù hợp với lời khai của bị cáo và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố và luận tội: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo; căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử: Áp khoản 1 Điều 174; Điều 38; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Phùng Văn C với mức án từ 18 tháng tù đến 24 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có công việc, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo. Về trách nhiệm dân sự: Anh Đặng Đức T đã nhận lại xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30, 01 giấy đăng ký xe, 01 căn cước công dân, 01 ví da màu nâu mặt trước ví có chữ “Polo mesido”, anh T không yêu cầu C bồi thường gì thêm. Đối với số tiền 12.000.000 đồng của anh Nguyễn Văn N bị cáo C đã trả lại anh N, anh N không yêu cầu gì thêm; về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Phùng Văn C 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel màu đen xám không liên quan đến việc phạm tội. Ngoài ra, trong vụ án này có anh Nguyễn Văn D, anh Nguyễn Văn N đã cầm cố xe cho C. Tuy nhiên anh D và anh N đều không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Công an không bị khởi tố. Đối với việc C mang máy tính lap - top nhãn hiệu Acer của bà Nguyễn Minh H và xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B1-847.23 của anh Phùng Văn Dũng đi cầm cố, bà Hiền và anh D thống nhất để cho C sẽ chuộc về trả sau nên không xử lý C. Đối với hành vi chơi trò chơi điện tử “bắn cá” của C, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau; về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Sau khi kết thúc phần tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt, tạo điều kiện để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra Công an quận Ngô Quyền, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

+ Về sự vắng mặt của bị hạị, người làm chứng:

[2] Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã triệu tập hợp lệ nhưng bị hại anh Đặng Đức T; người làm chứng anh Nguyễn Văn D, anh Nguyễn Văn N vắng mặt. Do đó, căn cứ khoản 1 Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị hại anh Đặng Đức T; người làm chứng anh Nguyễn Văn Dũng, anh Nguyễn Văn N.

- Về tội danh:

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, người bị hại, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở khẳng định: Ngày 14/10/2021, bị cáo Phùng Văn C dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30 của anh Đặng Đức T có trị giá là 26.000.000 đồng. Như vậy, hành vi của bị cáo Phùng Văn C đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

- Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội:

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự an toàn xã hội, gây dư luận xấu trong cộng đồng dân cư nên cần xử lý nghiêm bắt bị cáo chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ một thời gian để cải tạo, giáo dục và phòng ngừa chung theo quy định tại Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

- Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[5] Xét nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiên trọng, bị cáo đã tác động gia đình từ nguyện khắc phục hậu quả. Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có T độ thành khẩn, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt bổ sung:

[6] Ngoài hình phạt chính, bị cáo Phùng Văn C còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự. Do bị cáo không có công việc, không có thu nhập và tài sản nên không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về việc xử lý vật chứng:

[7] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Phùng Văn C 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel màu đen xám không liên quan đến việc phạm tội.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Đặng Đức T đã nhận lại đầy đủ tài sản xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B2-714.30, 01 giấy đăng ký xe, 01 căn cước công dân, 01 ví da màu nâu mặt trước ví có chữ “Polo mesido”, anh Nguyễn Văn N đã được bị cáo bồi thường số tiền 12.000.000 đồng. Anh Đặng Đức T và anh Nguyễn Văn N không yêu cầu gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Trong vụ án này có anh Nguyễn Văn D, anh Nguyễn Văn N đã cầm cố xe cho C. Tuy nhiên anh Dũng và anh N đều không biết đó là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan Công an không bị khởi tố.

[10] Đối với việc C mang máy tính lap-top nhãn hiệu Acer của bà Nguyễn Minh Hiền và xe mô tô Honda Air Blade BKS 15B1-847.23 của anh Phùng Văn Dũng đi cầm cố, bà Hiền và anh Dũng đồng ý để cho C sẽ chuộc về trả sau nên không xử lý C.

[11] Đối với hành vi chơi trò chơi điện tử “bắn cá” của C, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.

- Về án phí:

[12] Bị cáo Phùng Văn C phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Về quyền kháng cáo:

[13] Bị cáo Phùng Văn C, người bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 174; Điều 38; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Phùng Văn C 18 (mười tám) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03 tháng 11 năm 2021.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 46 của Bộ luật Hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Trả lại cho bị cáo Phùng Văn C 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel màu đen xám (Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 12/01/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng).

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Phùng Văn C phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo Phùng Văn C được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người bị hại anh Đặng Đức T được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

642
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 05/2022/HS-ST

Số hiệu:05/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;