TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ ĐỨC, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 103/2023/HS-ST NGÀY 26/12/2023 VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN TRONG KHI THI HÀNH CÔNG VỤ
Ngày 26 tháng 12 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2023/TLST - HS ngày 08/12/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2023/QĐXXST - HS ngày 11/12/2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Đức H, sinh năm 1974, tại Hà Nội; ĐKHKTT: Thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội; nghề nghiệp hiện nay: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; Là Đảng viên Đảng CSVN; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức M và bà Hoàng Thị K; có vợ: Hoàng Thị T và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/4/2023. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đức H: Bà Nguyễn Thị Hằng N và bà Đào Thị Bích N1, Luật sư, Văn phòng Luật sư Hằng N. Có mặt.
Người bị hại: Ông Trần Văn C, sinh năm 1961 Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M Thành phố Hà Nội.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
- Bà Đỗ Thị H1, sinh năm 1962.
Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Trần Văn T1, sinh năm 1956 Trú tại: Thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Văn C1, sinh năm 1963 - Nguyên Chủ tịch UBND xã X (Chủ tịch HĐTV).
Trú tại: Thôn N, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Trần Xuân O, sinh năm 1961 - Nguyên Thành viên ủy viên UBND xã X (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn Đ, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1976 - Nguyên Cán bộ Tài chính - Kinh tế xã X (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Cao K1, sinh năm 1982 - Nguyên Cán bộ Tư pháp xã X (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn N, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Đỗ Tiến P, sinh năm 1967 - Nguyên Cán bộ Văn phòng - Thống kê xã X (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Duy T2, sinh năm 1988 - Nguyên Cán bộ Thanh tra Xây dựng xã X (Ủy viên).
Trú tại: Thôn D, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Văn C2, sinh năm 1950 - Nguyên Chủ nhiệm HTXNN xã X (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Trung T3, sinh năm 1960 - Nguyên Chủ tịch UBMTTQ xã X (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn Đ, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội - Ông Nguyễn Văn C3, sinh năm 1980 - Nguyên Chủ tịch HND xã X (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Văn T4, sinh năm 1955 - Nguyên Trưởng thôn T (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Văn Q1, sinh năm 1959 - Nguyên Phó Trưởng thôn Đoài (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn Đ, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Bà Nghiêm Thị M1, sinh năm 1958 - Nguyên P1 Trưởng thôn Đoài (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn Đ, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Ngô Văn C4, sinh năm 1957 - Nguyên Trưởng thôn Đoài (Ủy viên). Trú tại: Đ, thôn Đ, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Đỗ Văn H2, sinh năm 1966 - Nguyên Trưởng thôn Thượng (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn T, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Văn M2, sinh năm 1959 - Nguyên Trưởng thôn N (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn N, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1958 - Trưởng thôn N2 (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn N, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Trương Văn C5, sinh năm 1959 - Nguyên Phó Trưởng thôn N2 (Ủy viên).
Trú tại: Đ, thôn N, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Phạm Hữu S, sinh năm 1965 - Nguyên Trưởng phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M.
Trú tại: Thôn Đ, xã H, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Bà Nguyễn Thị C6, sinh năm 1986 - Nguyên Cán bộ Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M.
Trú tại: Thôn B, xã P, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Đỗ Ngọc P2, sinh năm 1983 - Nguyên cán bộ Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất.
Trú tại: Phố Đ, thị trấn Đ, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Bạch Văn Đ1, sinh năm 1974 - Nguyên Phó Giám đốc văn phòng Đ2 chi nhánh huyện M.
Trú tại: Tổ dân phố T, thị trấn Đ, huyện M, Thành phố Hà Nội.
- Ông Lê Văn C7, sinh năm 1958 - Nguyên Phó Chủ tịch UBND huyện M.
Trú tại: Tổ dân phố V, thị trấn Đ, huyện M Thành phố Hà Nội.
- UBND xã X, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội Địa chỉ: Xã Xuy Xá, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.
- UBND huyện M, Thành phố Hà Nội Địa chỉ: Thị trấn Đại Nghĩa, huyện Mỹ Đức, Thành phố Hà Nội.
Ông Trần Văn C, Đỗ Thị H1, ông Trần Văn T1, ông Nguyễn Văn Q, ông Nguyễn Cao K1, ông Nguyễn Văn C2, ông Nguyễn Trung T3, ông Nguyễn Văn C3, ông Nguyễn Văn T4, Nguyễn Văn M2 có mặt. Ông Lê Văn C7, ông Đỗ Ngọc P2, bà Nguyễn Thị C6, ông Đỗ Tiến P, ông Bạch Văn Đ1, ông Phạm Hữu S, UBND xã X đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Ông Nguyễn Văn C1, ông Trần Xuân O, ông Nguyễn Duy T2,ông Nguyễn Văn Q1, bà Nghiêm Thị M1, ông Ngô Văn C4, ông Đỗ Văn H2, ông Nguyễn Minh Đ, ông Trương Văn C5, UBND huyện M vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng cuối năm 2011, UBND xã X có chủ trương triển khai xử lý tồn tại trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai để xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ dân trên địa bàn. Thời gian này, gia đình ông Trần Văn C đang làm ăn tại Vũng Tàu, không có mặt ở địa phương. Tuy nhiên, sau khi biết được chủ trương về việc triển khai cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (theo Nghị định số: 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ), ông C gọi điện về cho Nguyễn Đức H (khi đó là cán bộ địa chính xã X) đặt vấn đề xin làm thủ tục hợp thức diện tích 215,2m2 đất (gia đình ông đã lấn chiếm sử dụng từ khoảng thời gian năm 2009). Diện tích đất này đã được UBND xã X lập đo vẽ bản đồ năm 2009, thể hiện trên sổ mục kê là đất bãi bằng hàng năm khác (BHK) do UBND xã quản lý, Nguyễn Đức H đồng ý. Sau đó ông C thông qua anh trai là ông Trần Văn T1 đến gặp và đưa cho Nguyễn Đức H số tiền là 70.000.000đ để “nhờ” làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (được giải quyết theo quy định Nghị định số 84/2007/NĐ-CP) của Chính phủ, Nguyễn Đức H đồng ý nhận tiền.
Khoảng tháng 02/2012, gia đình ông C về quê, theo lời khai của Nguyễn Đức H, được sự chỉ đạo của ông Nguyễn Văn H3 (sinh năm 1962 - Nguyên Phó Chủ tịch UBND xã X, đã chết ngày 12/3/2014) Nguyễn Đức H đến nhà ông C thông báo áp giá đất tại thời điểm là 600.000đ/1m2, diện tích ông C đề nghị 215,2 m2 tương ứng với số tiền 139.880.000 đồng, yêu cầu ông C nộp thêm 69.880.000 đồng. Ông C đồng ý, vài ngày sau ông C đã đến phòng làm việc của Nguyễn Đức H tại trụ sở UBND xã X, giao cho H thêm 70.000.000 đồng (số tiền dư 120.000 đồng ông C tự nguyện không nhận lại). Tổng cộng cả hai lần Nguyễn Đức H đã nhận của ông C số tiền là 140.000.000 đồng. Một số ngày sau ông C đến UBND xã đề nghị được nhận biên lai thu tiền, Nguyễn Đức H đã báo cáo với ông Nguyễn Văn H3 - Phó Chủ tịch UBND xã, ông Nguyễn Văn H3 đã cho người lập phiếu, ghi số tiền ông C nộp là 139.880.000 đồng, yêu cầu Nguyễn Đức H ký vào phần người lập và chuyển lại phiếu nộp tiền cho ông C. Số tiền thu được của ông C, Nguyễn Đức H không đưa vào ngân sách xã mà đã để ngoài để chi tiêu vào mục đích cá nhân (theo lời khai của Nguyễn Đức H thì đã đưa toàn bộ số tiền này cho ông Nguyễn Văn H3 để đi chữa bệnh).
Về quy trình cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Trần Văn C: Sau khi đã nhận của gia đình ông C số tiền 140.000.000 đồng, cùng trong thời gian đó, UBND xã X đang triển khai thực hiện theo Công văn số 1524/UBND ngày 05/11/2009 của UBND huyện M về việc tiếp tục thực hiện công tác cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ. Lợi dụng chủ trương, Nguyễn Đức H đã đưa trường hợp của hộ gia đình ông Trần Văn C vào danh sách cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo diện cấp thường xuyên và hợp thức hồ sơ để đề nghị cùng 31 trường hợp khác, theo diện không phải nộp tiền sử dụng đất.
Ngày 01/03/2012, UBND xã X có quyết định số 140/QĐ-UBND thành lập hội đồng tư vấn đất đai với sự phân công: Ông Nguyễn Văn C1 - Chủ tịch UBND xã kiêm Chủ tịch hội đồng; ông Nguyễn Văn H3 - Phó Chủ tịch UBND xã, Phó Chủ tịch hội đồng; Ngoài ra còn có 17 thành viên khác là ủy viên; Các thành phần được mời tham gia có: Đại diện Đảng ủy và Hội đồng nhân dân xã các ông Nguyễn Văn M3 - Bí thư; Bà Ngô Thị N3 - Phó bí thư thường trực Đảng ủy, ông Nguyễn Văn P3 - Phó Chủ tịch HĐND xã.
Ngày 18/9/2012; Hội đồng tư vấn đất đai xã X đã họp có sự tham gia của đầy đủ các thành viên; Ông Nguyễn Văn C1 - Chủ tịch UBND xã là Chủ tịch hội đồng, Nguyễn Đức H là ủy viên thường trực đồng thời làm thư ký, Hội nghị đã nhất trí xét duyệt 32 trường hợp “đủ điều kiện” đề nghị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của đợt năm 2012, trong đó có hộ ông Trần Văn C.
Trên cơ sở nội dung thống nhất biên bản họp, ngày 29/10/2012 ông Nguyễn Văn C1 - Chủ tịch UBND xã ký tờ trình số 23/TT-UBND gửi UBND và Phòng Tài nguyên và Môi trường huyện M đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thổ cư cho 32 hộ dân xã X.
Các ông Bạch Văn Đ1 - Phó giám đốc Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất, ông Đỗ Ngọc P2 - Cán bộ Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất và bà Nguyễn Thị C6 - Cán bộ Phòng tài nguyên & Môi trường huyện M được phân công kiểm tra, kiểm định hồ sơ và xác nhận “đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Ngày 06/02/2013, ông Phạm Hữu S - Trưởng phòng Tài nguyên & Môi trường ký Tờ trình số 71/TT-TN&MT về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thổ cư cho 32 hộ gia đình, cá nhân sử dụng 32 thửa đất tại xã X. Căn cứ nội dung tờ trình, cùng ngày 06/02/2023 và ông Lê Văn C7 - Phó Chủ tịch UBND huyện M ký Quyết định số 267/QĐ-UBND cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 32 hộ gia đình, trong đó có hộ ông Trần Văn C.
Xác minh nguồn gốc thửa đất số 37: tờ bản đồ số: 18 diện tích 215,2m2 của ông Trần Văn C tại xã X, theo bản đồ địa chính và sổ mục kê xã X năm 1997, diện tích 215,2m2 của ông C thuộc thửa số 144, diện tích 184m2 (đất lợi hà) do UBND xã quản lý. Bản đồ đo đạc địa chính năm 2009 diện tích 215,2m2 của ông C thuộc một phần của thửa số 37, tờ bản đồ số 18, diện tích 492,4 m2 là loại đất trồng cây hàng năm do UBND xã quản lý.
Đối chiếu với quy định tại điểm 3 Điều 15 của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định:
“3. Nhà nước không công nhận quyền sử dụng đất, không cấp giấy chứng nhận và thu hồi toàn bộ diện tích đất do lan chiếm và đất được giao, được thuê không đúng thẩm quyền kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2004 trở về sau” Như vậy, có căn cứ xác định Ủy ban nhân dân xã X (trực tiếp do Nguyễn Đức H là cán bộ chuyên môn về đất đai) đã chủ động báo cáo trình sai nguồn gốc đất (từ đất lấn chiếm sang diện tích đất sử dụng lâu dài) dẫn tới việc UBND huyện M cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho gia đình ông Trần Văn C.
Ngày 04/11/2019, UBND huyện M đã ban hành Quyết định số 3291/QĐ-UBND do Phó Chủ tịch Lê Văn T5 ký nội dung:
“Thu hồi, hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BN 479981 cấp ngày 06/02/2013, tại thửa số 37, tờ bản đồ số 18 diện tích 215,2 m2 mang tên ông Trần Văn C tại xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội do cấp không đúng nguồn gốc đất (theo kết luận số 1641/KL-UBND ngày 6/11/2019 của UBND huyện M) * Ngày 25/5/2022 Cơ quan điều tra Công an huyện M ra Quyết định số: 141/QĐ-CSĐT trưng cầu Phòng K2 Công an Thành phố H giám định chữ ký, chữ viết trên phiếu thu tiền đề ngày 02/11/2011 do ông Trần Văn C cung cấp.
Tại Công văn số: 214/CV-PC09 ngày 01/6/2022 của Phòng K2 Công an Thành phố H về việc trao đổi nội dung giám định: Không nhận giám định chữ ký, chữ viết hình dấu sao chụp, (photocopy) nên không thực hiện giám định cho Cơ quan CSĐT Công an huyện M.
* Ngày 08/9/2022, Cơ quan điều tra Công an huyện M ra Yêu cầu định giá tài sản số: 50/YC-CSĐT đến Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M yêu cầu xác định giá trị của thửa đất UBND huyện đã cấp cho ông Trần Văn C.
Tại Kết luận định giá tài sản số 46/KL - HĐĐGTS ngày 22/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện M kết luận:
- Thời điểm trước khi cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 06/02/2013 thửa đất số 37, tờ bản đồ số 18, diện tích 215,2m2 là loại đất bằng hàng năm (BHK) do UBND xã X quản lý; giá trị thửa đất được quy định tại bảng số 02 bảng giá đất nông nghiệp trồng cây hàng năm theo Quyết định số 51/2012/QĐ-UBND ngày 28/12/2012 của UBND thành phố là 108.000 đồng/m2 đất (Một trăm linh tám nghìn đồng trên m2 đất).
- Thời điểm được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số Cr: BN 479981, số vào sổ cấp GCN: 42463 ngày 06/02/2013 mang tên ông Trần Văn C, sinh năm 1961, tại thôn thượng, xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội theo quyết định số 51/2012/QĐ-UBND ngày 28/12/2012 của UBND thành phố H, tổng giá trị là 990.000 đồng/1m2 (Chín trăm chín mươi nghìn đồng).
Tại bản cáo trạng số 89/CT - VKS - MĐ ngày 31/10/2023 và Công văn số 05/CV - VKSMĐ ngày 05/12/2023 của VKSND huyện Mỹ Đức vẫn truy tố Nguyễn Đức H về tội: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điểm c khoản 2 Điều 281 của Bộ luật hình sự năm 1999.
Tại phiên toà:
Bị cáo Nguyễn Đức H và người bào chữa cho bị cáo: Đều thừa nhận bị cáo phạm tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điểm c khoản 2 Điều 281 của Bộ luật hình sự năm 1999; nhưng đề nghị HĐXX xem xét toàn bộ nội dung vụ án, bị cáo chỉ là người thực hiện nhiệm do Hội đồng tư vấn phân công, vai trò của bị cáo thứ yếu, hơn nữa bị cáo phạm tội lần đầu, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả, bố bị cáo là ông Nguyễn Đức M, mẹ bị cáo là bà Hoàng Thị K đều được Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam và Hội đồng nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng nhiều huân, huy chương kháng chiến cao quý... nên đề nghị HĐXX xem xét xử bị cáo được hưởng mức án thấp nhất và được hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Đức vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 281 của Bộ luật hình sự năm 1999; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H từ 30 đến 36 tháng tù và không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Ngoài ra còn đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Lòi nói sau cùng của bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đối với bị cáo; các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì.
Về nội dung vụ án: Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với kết luận điều tra, cáo trạng, cùng toàn bộ các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ, có đủ căn cứ để khẳng định: Trong khoảng thời gian từ cuối năm 2011 đến đầu năm 2013, Nguyễn Đức H làm Cán bộ địa chính xã X, huyện M, Thành phố Hà Nội biết rồ nguồn gốc đất của gia đình ông Trần Văn C không đủ điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nhưng đã thực hiện sai quy định, báo cáo sai nguồn gốc (đất lấn chiếm thành đất sử dụng hợp pháp), đề nghị lập hồ sơ cấp Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đối với thửa đất số 37, tờ bản đồ 18 tại thôn T, xã X có diện tích 215,2 m2 cho gia đình ông Trần Văn C. Ngày 06/02/2013 UBND huyện M đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (số BN 479981) cho gia đình ông Trần Văn C sai quy định. Dẫn đến ngày 04/11/2019, UBND huyện M phải ra Quyết định thu hồi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho gia đình ông Trần Văn C. Quá trình thực hiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho gia đình ông Trần Văn C, Nguyễn Đức H đã cầm 140.000.000 đồng của gia đình ông Trần Văn C để đưa cho ông Nguyễn Văn H3. Giá trị diện tích đất vi phạm tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng được xác định là 213.048.000 đồng. Với các hành vi nêu trên của Nguyễn Đức H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Mặc dù VKSND huyện Mỹ Đức vẫn truy tố Nguyễn Đức H về tội: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo điểm c khoản 2 Điều 281 của Bộ luật hình sự năm 1999, nhưng Tòa án xét xử theo điểm c khoản 2 Điều 356 của Bộ luật hình sự năm 2015 vì:
So sánh khoản 2 Điều 281 của Bộ luật hình sự năm 1999, thì khoản 2 Điều 356 của Bộ luật hình sự năm 2015 nhẹ hơn (mặc dù khung hình phạt cũng từ 05 năm đến 10 năm, nhưng khoản 2 Điều 281 không quy định mức thiệt hại về tài sản, mà quy định “Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng” và theo hướng dẫn Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - BCA - BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV “Các tội phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 thì hậu quả nghiêm trọng về tài sản là từ 50.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, áp dụng đối với hành vi phạm tội được thực hiện sau 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018; còn hành vi phạm tội được thực hiện trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018, mà sau thời điểm này mới bị phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử thì cũng được áp dụng điểm c khoản 2 Điều 356 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm hoạt động đúng đắn, uy tín của cơ quan nhà nước nói chung, chính quyền địa phương nói riêng, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an và khó khăn cho công tác quản lý đất đai ở địa phương, nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo khắc phục sai phạm, cũng như để răn đe phòng ngừa chung.
Về vai trò của bị cáo trong vụ án: Bị cáo là cán bộ địa chính xã, chịu trách nhiệm tham mưu cho UBND xã trong việc quản lý đất đai trên địa bàn xã và được Hội đồng tư vấn đất đai xã X giao trách nhiệm thực hiện đúng quy định của pháp luật đất đai, nhưng bị cáo không thực hiện đúng, dẫn đến vi phạm; để xảy ra sự việc lỗi chủ yếu thuộc về Hội đồng tư vấn đất đai xã X và một số cán bộ huyện M được giao kiểm tra, thẩm tra lại hồ sơ về đất đai, nhưng không làm đúng quy định. Hành vi phạm tội của bị cáo với vai trò thứ yếu trong vụ án.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, thực sự ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả; bố bị cáo là ông Nguyễn Đức M, mẹ bị cáo là bà Hoàng Thị K đều được Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền nam Việt Nam và Hội đồng nhà nước nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng nhiều huân, huy chương kháng chiến cao quý...mà áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự nhân đạo của Nhà nước đối với người phạm tội.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.
Bị cáo Nguyễn Đức H có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1, khoản 2 Điều 51, nên áp dụng Điều 54 của BLHS mà giảm nhẹ dưới mức thấp của khung hình phạt.
Do bị cáo hiện không có nghề nghiệp và thu nhập có mức độ, không có điều kiện để thi hành, nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.
Đối với Nguyễn Văn C1, Trần Xuân O, Nguyễn Văn Q, Nguyễn Cao K1, Đỗ Tiến P, Nguyễn Duy T2, Nguyễn Văn C2, Nguyễn Trung T3, Nguyễn Văn C3, Nguyễn Văn T4, Nguyễn Văn Q1, Nghiêm Thị M1, Ngô Văn C4, Đỗ Văn H2, Nguyễn Văn M2, Nguyễn Minh Đ, Trương Văn C5, Phạm Hữu S, Nguyễn Thị C6, Đỗ Ngọc P2, Bạch Văn Đ1, Lê Văn C7, cũng có dấu hiệu Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ hoặc tội phạm khác. Mặc dù Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện M đã ra Quyết định tách hành vi và tài liệu liên quan trong vụ án hình sự số: 09/QĐ - ĐCSKT - MT ngày 20/9/2023, nhưng Tòa án vẫn ra Quyết định yêu cầu điều tra bổ sung số 10/2023/HSST-QĐ ngày 01/12/2023, yêu cầu làm rõ hành vi vi phạm của những người này để xác định có hay không đồng phạm hoặc tội phạm khác. Tuy nhiên, VKSND huyện Mỹ Đức vẫn giữ nguyên quan điểm theo Cáo trạng, chỉ truy tố Nguyễn Đức H, nên theo Điều 298 của BLTTHS quy định về giới hạn xét xử, HĐXX không thể xem xét trách nhiệm trước pháp luật đối với các đối tượng nêu trên trong vụ án này mà kiến nghị với các cơ quan tố tụng cấp huyện và cấp trên xem xét xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật để tránh bỏ lọt tội phạm hoặc bỏ lọt các vi phạm khác.
Đối với ông Nguyễn Văn H3 đã chết, nên Cơ quan điều tra Công an huyện M không đề cập xử lý là có căn cứ.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho gia đình ông Trần Văn C 200.000.000 đồng, tại phiên tòa hôm nay không ai có đề nghị hay yêu cầu gì, nên Tòa không xét.
Ngoài ra buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
2. Về điều luật áp dụng và hình phạt:
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 356 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 38; Điều 50; điểm b, s khoản 1, khoán 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật hình sự năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 03/4/2023.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu án phí, lệ phí Tòa án, tạm ứng án phí, tạm ứng lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Đức H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
Bản án 103/2023/HS-ST về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ
Số hiệu: | 103/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Đức - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về