Bản án 43/2023/HS-ST về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN MÔ - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 43/2023/HS-ST NGÀY 19/09/2023 VỀ TỘI LỢI DỤNG CHỨC VỤ QUYỀN HẠN KHI THI HÀNH CÔNG VỤ

Ngày 19 tháng 9 năm 2023, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 38/2023/TLST-HS, ngày 25 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 09 năm 2023 đối với bị cáo:

Bùi Huy Đ, sinh năm: 1987, tại tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Số nhà N, đường U, tổ dân phố Y, thị trấn Th, huyện M, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: Công chức địa chính, nông nghiệp, xây dựng xã; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; (Là Đảng viên, đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng theo Quyết đinh số 60-QĐ/UBKTHU, ngày 10/8/2023 của Ủy ban kiểm tra huyện ủy Yên Mô); con ông Bùi Huy Đ và bà Vũ Thị T; có vợ là Nguyễn Bảo Ng và 02 con; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại (Có mặt).

Bị hại:

Anh Tạ Xuân H, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn Th, xã H, huyện M, tỉnh Ninh Bình Ông Ninh Quốc A, sinh năm 1957 (Có mặt);

Nơi cư trú: Xóm A, xã H, huyện Kh, tỉnh Ninh Bình Chị Ninh Thị Nh, sinh năm 1969 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Tổ dân phố V, thị trấn A, huyện Â, tỉnh Điện Biên;

Anh Lê Hữu Tr, sinh năm 1987 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm D1, xã H, huyện M, tỉnh Ninh Bình;

Ông Ninh Đại Ngh, sinh năm 1954 (Vắng mặt) Nơi cư trú: 15/52/17, X, phường Q, quận Ph, thành phố Hồ Chí Minh; Bà Bùi Thị L, sinh năm 1964 (Vắng mặt) Nơi cư trú: 41F/2A, đường H, khu phố A, phường H, thành phố Th, tỉnh Bình Dương;

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án Bà Lê Thị M, sinh năm 1951 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm T, xã H, huyện M, tỉnh Ninh Bình; Ông Tống Như Th, sinh năm 1955 (Vắng mặt) Nơi cư trú: Xóm D3, xã H, huyện M, tỉnh Ninh Bình; Ông Lê Văn Ch, sinh năm 1958 (Có mặt);

Nơi cư trú: Tổ 24, thị trấn A, huyện A, thành phố Hà Nội Người làm chứng: Bà Đỗ Thị L, chị Vũ Thị Thu H, anh Dương Văn H, anh Dương Quang Th, anh Đào Sỹ L, anh Phạm Văn Tr1 (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bùi Huy Đ là cán bộ công chức Địa chính - nông nghiệp – xây dựng xã Yên Hưng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Trong thời gian từ tháng 5/2019 đến ngày 19/9/2022, vì vụ lợi cá nhân, Đ đã lợi dụng quyền hạn của mình làm trái công vụ trong việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết thủ tục hành chính đất đai, nhận tiền của 9 cá nhân với tổng số tiền 46.025.000 đồng, trong đó gây thiệt hại cho anh Tạ Xuân H, ông Ninh Quốc A, bà Ninh Thị Nh, anh Lê Hữu Tr, ông Ninh Đại Ngh và bà Bùi Thị L với tổng số tiền là 24.396.400 đồng, cụ thể:

Đối với hộ anh Tạ Xuân H: Vào khoảng tháng 5 năm 2019, gia đình bà Đỗ Thị L, sinh năm 1948 trú tại thôn Thọ Thái, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô có nhu cầu tách thửa, tặng cho, thừa kế quyền sử dụng đất của thửa đất số 212, tờ bản đồ số 4 thuộc, xã Yên Hưng cho 03 người con là anh Tạ Xuân H, Tạ Đình Kh, Tạ Xuân Đ, nên anh H đã đến Uỷ ban nhân dân xã Yên Hưng, huyện Yên Mô gặp Bùi Huy Đ nhờ hướng dẫn làm thủ tục. Đ nhận lời nhưng không báo cáo lãnh đạo UBND xã Yên Hưng về việc tiếp nhận thủ tục hồ sơ, không vào sổ sách theo dõi giải quyết thủ tục hành chính đất đai, không nộp hồ sơ đến bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện Yên Mô. Vào khoảng tháng 8/2019, Đ mời anh Dương Văn H và anh Phạm Văn Tr là cán bộ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô về đo đạc hiện trạng đất của gia đình bà L nhưng không làm các thủ tục đăng ký tại Văn phòng đăng ký đất đai nên vẫn chưa có trích đo địa chính thửa đất. Quá trình tiếp nhận hồ sơ, Đ không hướng dẫn, giải thích đầy đủ cho gia đình anh H trình tự, thủ tục mà chỉ hướng dẫn, yêu cầu anh H nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các giấy tờ như sổ hộ khẩu, căn cước công dân của những thành viên trong gia đình có liên quan đến việc phân chia tài sản thừa kế và làm một số văn bản phân chia tài sản thửa kế, đơn đăng ký biến động đất đai và tài sản gắn liền với đất, tờ khai thuế, biên bản xác định ranh giới, mốc giới tại thực địa giấy tờ này bỏ trống nhiều nội dung, cột mục, ngày, tháng, năm... rồi thông báo cho anh H, anh Đ, anh Kh, ngày 18/2/2021 cùng đến phòng làm việc của Đ để ký khống vào các giấy tờ Đ đã chuẩn bị sẵn để làm thủ tục hồ sơ.

Ngày 10/4/2022, anh H đến UBND xã gặp Đ đặt vấn đề để làm hồ sơ, thủ tục, Đ có nói chi phí đo đạc địa chính là 2.500.000 đồng, thấy Đ đưa ra nhiều vướng mắc khi làm thủ tục nên anh H đã đưa số tiền 2.500.000 đồng cho Đ, để nhờ Đ nộp tiền đo đạc địa chính. Đến ngày 13/5/2022, mặc dù không chuyển hồ sơ, không thông báo tiếp nhận hồ sơ của gia đình anh H cho Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô để phân công cán bộ đo đạc thực địa thửa đất gia đình anh H nhưng Đ vẫn gọi điện thoại cho H nói dối “anh sắp xếp thời gian để về đo đất” mục đích để cho anh H tin tưởng Đ vẫn đang giúp giải quyết hồ sơ, thủ tục cho anh H do khi đó anh H đi làm ở Hà Nội không có mặt ở nhà. Đến ngày 15/5/2022, anh H đến gặp Đ tại phòng làm việc của Đ ở Ủy ban nhân dân xã Yên Hưng đưa cho Đ số tiền 1.000.000 đồng nhờ Đ giúp đỡ. Đến khoảng ngày 29/5/2022, H gọi điện thoại hỏi Đ “tình hình hồ sơ đến đâu rồi” thì Đ trả lời “hồ sơ vẫn đang trong quá trình làm, còn phải làm đính chính sai sót trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và giấy từ chối tài sản thừa kế của người liên quan, làm biên bản họp gia đình để cho một người đại diện đứng ra làm tục đính chính, tách thửa” nhưng thực tế Đ không làm gì thêm. Anh H hỏi tiếp “Chi phí làm nhanh thủ tục hồ sơ, có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất như thế nào”, Đ trả lời “để tính toán có gì báo sau”. Đến khoảng ngày 02/6/2022, anh H tiếp tục gọi điện cho Đ hỏi thủ tục, chi phí làm trọn gói tới khi xong có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 3 anh em H, Đ, Kh như thế nào. Mặc dù Đ biết Công văn số 767/STNMT-ĐKĐĐ ngày 25/4/2022 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình về việc tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai đang chỉ đạo rà soát giấy chứng nhận đã cấp không đúng quy định, trong đó chưa đúng thời hạn sử dụng đất để xây dựng kế hoạch thu hồi giấy chứng nhận đã cấp, thủ tục nhà anh H hiện đang vướng mắc, chưa giải quyết được nhưng Đ vẫn nhận lời làm trọn gói thủ tục cho H và trả lời anh H “chi phí hết 13.000.000 đồng”. Đến ngày 5/6/2022, anh H cùng mẹ là bà Đỗ Thị L đến nhà Đ ở thị trấn Yên Thịnh. Tại nhà Đ, anh H tiếp tục đưa cho Đ số tiền 13.000.000 đồng. Sau khi nhận tổng số tiền 16.500.000 đồng của anh H, Đ đã tiêu sài cá nhân hết.

Đối với hộ anh Lê Hữu Tr:

Đầu năm 2020, ông Lê Hữu Ch là bố đẻ anh Lê Hữu Tr sinh năm 1987, trú tại xóm Dò 1, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô đến UBND xã Yên Hưng đề nghị Bùi Huy Đ làm thủ tục tách thửa đất số 1397, tờ bản đồ số 2a thuộc xóm Dò 1, xã Yên Hưng, thửa đất trước đây mang tên ông Chi đã sang tên cho vợ chồng con gái là chị Lê Thị Th và anh Trần Văn Tr, gia đình có nhu cầu tách thửa để chuyển nhượng một phần cho vợ chồng anh Lê Hữu Tr, chị Lê Thị T. Nhưng do thời điểm đó Đ phát hiện gia đình anh Tr có vi phạm trong quá trình sử dụng đất, không thể làm được thủ tục nên không tiếp nhận hồ sơ giải quyết thủ tục của ông Ch, tuy nhiên ông Ch không nói lại sự việc cho vợ chồng anh Tr biết. Thấy thời gian ông Ch đề nghị làm thủ tục đã lâu nhưng không thấy Đ làm thủ tục nên đầu tháng 11/2021, chị T đến UBND xã Yên Hưng đề nghị Đ làm thủ tục tách thửa đất cho gia đình. Mặc dù biết thửa đất trên không thể tách thửa được nhưng Đ vẫn đồng ý làm thủ tục. Ngày 11/11/2021 Đ mời hai cán bộ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô là anh Dương Văn H và anh Ngô Việt H tiến hành đo đạc thửa đất. Sau khi đo đạc xong, chị T hỏi Đ về chi phí làm hồ sơ thì Đ trả lời “chi phí là 5 triệu, gồm 2,2 triệu tiền đo đạc và làm hồ sơ, còn lại bồi dưỡng cho em”, nên chị T đã đưa cho Đ số tiền 5.000.000 đồng. Sau khi tiếp nhận hồ sơ, nhận tiền của gia đình anh Trình, Đ không báo cáo lãnh đạo UBND xã Yên Hưng, không vào số sách theo dõi giải quyết thủ tục đất đai vì biết thủ tục gia đình nhà anh Tr sẽ không giải quyết được. Ngày 16/11/2021 có kết quả đo đạc thửa đất, Đ đã nộp số tiền đo đạc thửa đất 1.932.700 đồng cho Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô, nộp 50.000 đồng phí chứng thực thủ tục tách thửa cho UBND xã Yên Hưng. Ngày 31/12/2021 Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô có Văn bản số 3160/CNVPĐKĐĐ trả lời hồ sơ chưa đủ điều kiện do mục đích sử dụng đất ao chưa phù hợp với quy hoạch sử dụng đất.

Đối với hộ ông Ninh Đại Ngh:

Cuối tháng 7 năm 2020, ông Ninh Đại Ngh sinh năm 1954, trú tại thôn Thọ Thái, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô đến UBND xã Yên Hưng gặp, đề nghị Bùi Huy Đ làm thủ tục nhận thừa kế thửa đất số 33, tờ bản đồ số 3 thuộc thôn Thọ Thái, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô cho con trai là anh Ninh Quốc B. Quá trình làm việc, Đ không hướng dẫn, giải thích cụ thể cho ông Ngh trình tự, thủ tục mà nói với ông Ngh nộp các giấy tờ cá nhân của ông Ngh và các con để làm hồ sơ, lúc này, ông Ngh hỏi Đ chi phí làm hồ sơ thì Đ nói “Mấy hôm sau cháu mời anh em ở Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai đến đo đạc thửa đất cho chú, chú đưa cháu 2.500.000 đồng chi phí chuyển đổi quyền sử dụng đất”. Cùng ngày, tại phòng làm việc của Đ ở Trụ sở UBND xã Yên Hưng ông Ngh đã đưa cho Đ số tiền 2.500.000 đồng. Sau khi nhận tiền, đến cuối tháng 7/2020, Đ mời 2 cán bộ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô là anh Dương Văn H và anh Ngô Việt H tiến hành đo đạc thửa đất nhà ông Ngh, sau đó ông Ngh và các con lên trụ sở UBND xã Yên Hưng ký một số văn bản, giấy tờ do Đ soạn thảo. Ngày 3/8/2020 có kết quả đo đạc, Đ nộp số tiền 1.932.700 đồng tiền đo đạc thửa đất cho Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô. Tuy nhiên vì thủ tục ông Ngh chưa đủ nên ngày 25/12/2021, Đ hẹn ông Ngh và các con tiếp tục đến trụ sở để ký vào một số văn bản do Đ soạn thảo. Sau khi ký xong giấy tờ thì ông Ngh vào thành phố Hồ Chí Minh, không có mặt tại địa phương, Đ không đưa ông Ngh hồ sơ để ông Ngh đi nộp. Đến ngày 19/9/2022, thủ tục gia đình ông Ngh vẫn chưa giải quyết xong.

Đối với hộ ông Ninh Quốc A:

Tháng 5/2021, ông Ninh Quốc A, sinh năm 1957, trú tại xóm 11, xã Khánh Hồng, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình có nhu cầu làm thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng 02 thửa đất số 15, tờ bản đồ số 3 và thửa đất số 12, tờ bản đồ số 3 thuộc thôn Thọ Thái, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô, từ mẹ đẻ là bà Lê Thị Thu đã chết (Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên hộ bà Ninh Thị N) cho ông A. Anh Ninh Quang Th sinh năm 1980, trú tại tổ 11, phường Bắc Cường, thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai là con trai ông A đến trụ sở UBND xã Yên Hưng gặp Bùi Huy Đ hỏi quy trình làm thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng 02 thửa đất nêu trên. Quá trình làm việc, Đ không hướng dẫn, giải thích trình tự thủ tục cho anh Th mà chỉ nói anh Th kiểm tra lại diện tích trên bản đồ, tiến hành đo đạc địa chính, khi nào đo đạc sẽ báo lại sau. Đến ngày 11/08/2021, Đ cùng 02 cán bộ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô là anh Dương Văn H và anh Dương Quang Th tiến hành đo đạc thửa đất. Ngày 14/10/2021, thấy chưa làm xong thủ tục nên anh Th đã đến gặp Đ thì Đ nói thủ tục có nhiều khó khăn, vướng mắc như: phải đính chính nội dung sai sót trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hộ bà Ninh Thị N thành Lê Thị Th; thủ tục tách đất ở, đất ao, đất vườn riêng phức tạp...Thấy Đ nói thủ tục có nhiều khó khăn nên anh Thanh hỏi Đ về chi phí làm thủ tục chuyển nhượng thì Đ nói “Phí đo đạc 02 thửa đất hết 5 triệu đồng, photo công chứng tài liệu hơn 1 triệu, bồi dưỡng, cảm ơn bao nhiêu tùy tâm gia đình”. Anh Th đồng ý và nói với Đ “Anh chuyển cho em 8 triệu đồng cả bồi dưỡng” thì Đ đồng ý. Sau đó, đến ngày 19/10/2021 anh Th nhờ chị Ninh Thị Kim T sinh năm 1972 trú tại thôn Thọ Thái, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô chuyển khoản số tiền 8.000.000 đồng đến tài khoản Viettel pay của Đ. Sau khi nhận được tiền, đến khoảng tháng 3/2022, hộ gia đình ông A đã nộp các giấy tờ theo yêu cầu của Đ. Đ tiếp nhận hồ sơ nhưng không báo cáo lãnh đạo UBND xã Yên Hưng, không vào sổ sách theo dõi giải quyết thủ tục hành chính đất đai. Đến tháng 6/2022, Đ hẹn ông A và những người có liên quan đến UBND xã Yên Hưng ký vào những văn bản do Đ soạn thảo. Quá trình làm hồ sơ, Đ đã nộp hồ sơ đính chính cho ông A đến bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện Yên Mô, những văn bản còn lại Đ vẫn giữ để trong hồ sơ, các chi phí Đ đã nộp cho UBND xã Yên Hưng 50.000 đồng chứng thực Văn bản phân chia tài sản thừa kế của gia đình ông Ân, 50.000 đồng phí thẩm định hồ sơ, 40.000 đồng phí đính chính sai sót trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, 80.000 đồng phí đăng ký biến động số thửa, tổng số tiền là 220.000 đồng. Đến ngày 18/7/2022, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện Yên Mô đã trả kết quả giải quyết hồ sơ đính chính. Sau đó đến ngày 19/9/2022, Đ không làm thêm thủ tục gì, không giải quyết xong thủ tục cho gia đình ông A.

Đối với hộ bà Ninh Thị Nh:

Tháng 6/2022, gia đình bà Ninh Thị Nh sinh năm 1969, trú tại tổ dân phố 3, thị trấn Mường Ảng, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên (chồng là ông Lê Trọng L) có nhu cầu làm thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng thửa đất số 889, tờ bản đồ số 2 thuộc xóm Giữa Tây, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình cho con trai là anh Lê Trọng L nên ngày 20/6/2022, bà Nh và anh L đến trụ sở UBND xã Yên Hưng gặp Bùi Huy Đ để hỏi thủ tục và đề nghị Đ làm thủ tục chuyển quyền sử dụng thửa đất trên. Quá trình làm việc, Đ hướng dẫn, yêu cầu bà Nh nộp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các giấy tờ về nhân thân của bà Nh và các con, nói cần phải làm thủ tục đính chính sai sót trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, các thủ tục đo đạc địa chính. Bà Nh thấy Đ nói Đ sẽ là người làm hồ sơ, bìa đỏ bị sai sót, thủ tục khó khăn nên bà Nh muốn nhờ Đ làm giúp thủ tục nên hỏi Đ về chi phí làm thủ tục thì Đ nói “Chi phí đo đạc khoảng 2 triệu đồng, tiền bồi dưỡng bao nhiêu tuỳ tâm gia đình”. Sau đó, bà Nh về nhà mang các giấy tờ Đ yêu cầu đến nộp, Đ tiếp nhận hồ sơ nhưng không báo cáo lãnh đạo UBND xã Yên Hưng, không vào sổ sách theo dõi giải quyết thủ tục hành chính đất đai. Ngày 22/6/2022, Đ hẹn bà Nh và các con đến Uỷ ban nhân dân xã Yên Hưng đến ký một số văn bản, giấy tờ do Đ soạn thảo sau đó đưa bà Nh cầm hồ sơ làm thủ tục đính chính để nộp tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả huyện Yên Mô. Bà Nh vì thấy Đ nói chi phí đo đạc khoảng 2 triệu đồng, tiền bồi dưỡng bao nhiêu tuỳ tâm gia đình, hồ sơ do Đ làm nên ngày 22/6/2022 bà Nh chuyển khoản số tiền 5.000.000 đồng đến tài khoản Viettel Pay của Đ. Sau khi nhận tiền của bà Nh, Đ đã nộp cho UBND và Yên Hưng số tiền 50.000đồng chứng thực văn bản phân chia tài sản thừa kế của gia đình bà Nh, 50.000đồng tiền thẩm định hồ sơ và 40.000 đồng phí đính chính sai sót trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số tiền là 140.000. Đến ngày 30/6/2022 thủ tục đính chính giấy chính nhận quyền sử dụng chất làm xong. Sau đó đến ngày 19/9/2022, Đ không làm thêm thủ tục gì, không giải quyết xong thủ tục cho gia đình bà Nh.

Đối với hộ bà Bùi Thị L Tháng 6 năm 2012, bà Bùi Thị L sinh năm 1964, trú tại xã Ayun Hạ, huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lại đến UBND xã Yên Hưng gặp, đề nghị Đ làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định của Bản án phân chia tài sản sau ly hôn thửa đất số 898 tờ bản đồ số 2 thuộc xóm Dò 1, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình với chồng cũ là ông Tống Duy Ph, sinh năm 1964, trú tại xóm Dò 1, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình, Quá trình làm việc, Đ không hướng dẫn, giải thích cụ thể cho bà L trình tự, thủ tục mà nói với bà L phải tiến hành đo đạc thửa đất trước, hồ sơ do Đ làm. Thấy vậy, bà L hỏi Đ chi phí làm thủ tục thì Đ trả lời “chi phí đo đạc là khoảng 2 triệu đồng”, bà L đồng ý. Sau đó, bà L đã đưa cho Đ số tiền 2.000.000 đồng tiền đo đạc thửa đất tại phòng làm việc của Đ ở UBND xã Yên Hưng để Đ nộp hộ. Sau khi nhận tiền của bà L, Đ không báo cáo lãnh đạo UBND xã Yên Hưng, không vào sổ sách theo dõi giải quyết thủ tục đất đai, chưa nộp tiền chi phí gì để giải quyết thủ tục cho bà L mà chỉ làm các văn bản đưa cho bà L ký Đơn đăng ký biến động đất đai và tài sản gắn liền với đất và Đơn xin tách hợp thửa, bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất tại thực địa bỏ trống nội dung, cột mục, ngày tháng năm. Sau đó đến ngày 19/9/2022, Đ vẫn chưa tiến hành đo đạc thửa đất, chưa giải quyết xong thủ tục cho bà L.

Ngoài 06 cá nhân nêu trên, Bùi Huy Đ còn có hành vi nhận tiền trong quá trình giải quyết thủ tục đất đai của 03 người, nhận của ông Tống Như Th sinh năm 1955 trú tại xóm Dò 3, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô số tiền 2.025.000 đồng (do bà Lê Thị S sinh năm 1959, vợ ông Thạo đưa cho Đ), ông Lê Văn Ch sinh năm 1958 trú tại xóm Giữa Đông, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô số tiền 2.000.000 đồng (do ông Ch đưa cho Đ và Đ đã nộp tiền đo đạc là 1.897.500 đồng) và bà Lê Thị M sinh năm 1951 trú tại xóm Giữa Tây, xã Yên Hưng, huyện Yên Mô số tiền 3.000.000 đồng (do bà Mỡi đưa cho Đ).

Tại Bản Kết luận giám định tư pháp ngày 15/03/2023 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Ninh Bình kết luận:

… 7.1. Khi người sử dụng đất thực hiện các quyền (chuyển nhượng, thừa kế, tặng cho, chia tách thửa đất, ...) thì nộp hồ sơ trực tiếp tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của UBND cấp xã nơi có đất hoặc Bộ phận Tiếp nhận hồ sơ và Trà kết quả của UBND cấp huyện (trường hợp người nộp hồ sơ không phải là chủ sử dụng đất thì phải có Giấy ủy quyền theo quy định của người sử dụng đất). Sau khi tiếp nhận hồ sơ, cán bộ tiếp nhận có trách nhiệm trả cho người nộp hồ sơ (Người sử dụng đất) Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả.

Như vậy, việc ông Bùi Huy Đ nhận giải quyết hồ sơ cho các hộ gia đình, cá nhân nhưng không thực hiện nộp hồ sơ tại Bộ phận Tiếp nhận và Trả kết quả của UBND cấp xã hoặc cấp huyện (hồ sơ gửi kèm không có Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả) là không đúng quy định theo quy định của bộ thủ tục hành chính đã được UBND tỉnh Ninh Bình công bố tại Quyết định số 760/QĐ-UBND ngày 23/8/2022 về việc phê duyệt Quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp huyện, UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Ninh Bình. Vi phạm này bị xử lý theo quy định của pháp luật về công chức.

Ông Bùi Huy Đ không được UBND xã Yên Hưng giao nhiệm vụ thu phí, lệ phí giải quyết thủ tục hành chính liên quan đến hồ sơ của các hộ gia đình, cá nhân trên, việc ông Đ nhận (thu) tiền để giải quyết hồ sơ thủ tục hành chính cho các hộ gia đình, cá nhân trên là vi phạm pháp luật.

Người sử dụng đất nói chung, các hộ gia đình, cá nhân trên địa bàn huyện Yên Mô nói riêng có thể yêu cầu Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô (Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Ninh Bình) hoặc thuê các đơn vị tư vấn có đủ năng lực theo quy định để thực hiện trích đo địa chính thửa đất để thực hiện các quyền của người sử dụng đất.

Việc ông Đ nhờ (thuê) đơn vị tư vấn nào trích đo địa chính thửa đất, thu bao nhiêu tiền của các hộ gia đình, cá nhân là thỏa thuận giữa các bên với nhau, Nếu Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô được yêu cầu trích do địa chính thửa đất cho các hộ gia đình, cá nhân trên thì sẽ có Hợp đồng cung cấp dịch vụ giữa Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô với các hộ gia đình, cá nhân; Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô phải xuất Hóa đơn giá trị gia tăng theo quy định.

Ông Bùi Huy Đ không được Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô (Văn phòng Đăng ký đất đai tỉnh Ninh Bình) giao (nhờ, ủy quyền thu tiền trích đo địa chính thửa đất.

Việc ông Bùi Huy Đ nhận nộp hộ tiền trích đo địa chính thửa đất cho các hộ gia đình, cá nhân nhưng chưa có kết quả (sản phẩm: Biên bản xác định ranh giới, mốc giới thửa đất (Bản mô tả ranh giới, mốc giới thửa đất); bản Trích đo địa chính thửa đất phải được chủ sử dụng đất, đơn vị tư vấn (có thể là Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô), Đơn vị kiểm tra là Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô ký, xác nhận, thì việc trích đo địa chính thửa đất chưa được xác định là hoàn thành), trách nhiệm này thuộc về ông Bùi Huy Đ.

7.2. Thời gian giải quyết thủ tục hành chính về đất đai của từng hồ sơ được thực hiện theo quy định của Bộ thủ tục hành chính đã được UBND tỉnh Ninh Bình công bố tại Quyết định số 760/QĐ-UBND ngày 23/8/2022 về việc phê duyệt Quy trình nội bộ giải quyết thủ tục hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Sở Tài nguyên và Môi trường, UBND cấp huyện, UBND cấp xã trên địa bàn tỉnh Ninh Bình.

Việc thu phí chứng nhận biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp, phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo Nghị quyết số 08/2022/NQ-HĐND ngày 30/3/2022 của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình về việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số nội dung của Quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng các khoản phí, lệ phí trên địa bàn tỉnh Ninh Bình ban hành kèm theo Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày 14/12/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Bình.

Việc thu tiền dịch vụ trích đo địa chính thửa đất được thực hiện theo Quyết định số 10/QĐ-UBND ngày 08/6/2018 của UBND tỉnh Ninh Bình về việc ban hành Bộ đơn giá sản phẩm đo đạc lập bản đồ địa chính, đăng ký đất đai, tài sản gắn liền với đất, lập hồ sơ địa chính, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, 7.3. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, tài liệu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô cung cấp (Quyết định số 13/QĐ-CQĐT ngày 13/01/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô), Báo cáo số 114/BC-CNYM ngày 03/02/2023 của Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai huyện Yên Mô, căn cứ các văn bản quy định liên quan, kết luận chi phí số tiền thực tế phải nộp theo quy định, thời gian giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai, thiệt hại thực tế của 09 hộ dân cụ thể như sau:

7.3.1. Đối với hộ ông Tạ Xuân H:

Do tại văn bản phân chia di sản thừa kế, không thể hiện rõ nội dung thừa đất để thừa kế cho 03 người (ông Tạ Đình Kh, ông Tạ Xuân H, ông Tạ Văn Đ) cùng sử dụng chung thửa đất hay tách riêng thành 03 thừa cho từng người sử dụng riêng, do đó:

a) Trường hợp thửa đất thừa kế để cho 03 người (ông Tạ Đình Kh, ông Tạ Xuân H, ông Tạ Văn Đ) cùng sử dụng chung (trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất ghi tên cả 03 người) và 03 người đề nghị cấp cho mỗi người 01 (một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất:

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định trong trường hợp này là 2.607.000 đồng (Trong đó Chi phi trích đo địa chính thửa đất là 2.457.000 đồng, phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 150.000 đồng/03 Giấy chứng nhận). Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Tạ Xuân H 16.500.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quá số tiền thực tế phải nộp theo quy định là 13.893.000 đồng, gây thiệt hại thực tế cho hộ ông Tạ Xuân H là 13.893.000 đồng (mười ba triệu tám trăm chín mươi ba nghìn đồng).

Thời gian thực hiện thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

b) Trường hợp thửa đất thừa kế để cho 03 người (ông Tạ Đình Kh, ông Tạ Xuân H, ông Tạ Văn Đ) mà cả 03 người đề nghị cấp cho 01 (một) người đại diện đứng tên trên Giấy chứng nhận:

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định trong trường hợp này là 2.507.000 đồng (trong đó Chi phí trích đo địa chính thửa đất là 2.457.000 đồng; phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 50.000 đồng/01 Giấy chứng nhận). Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Tạ Xuân H 16.500.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quá số tiền thực tế phải nộp theo quy định là 13.993.000 đồng, gây thiệt hại cho hộ ông Tạ Xuân H là 13.993.000 đồng (mười ba triệu chín trăm chín mươi ba nghìn đồng).

Thời gian thực hiện thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

c) Trường hợp thửa đất thừa kế để cho 03 người (ông Tạ Đình Kh, ông Từ Xuân H, ông Tạ Văn Đ) được tách thành 03 thửa riêng biệt và cấp cho mỗi người 01 (một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định trong trường hợp này là 2.647.000 đồng (Trong đó Chi phi trích đo địa chính thửa đất là 2. 457.000 đồng, phi chứng nhận biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp là 40.000 đồng (nếu thực hiện thủ tục tách thửa để phân chia di sản thừa kế, phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 150.000 đồng 03 Giấy chứng nhận). Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Tạ Xuân H 16,500.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quá số tiền thực tế phải nộp theo quy định là 13.853.000 đồng, gây thiệt hại cho hộ ông Tạ Xuân H là 13.853.000 đồng (mười ba triều tâm trăm năm mươi ba nghìn đồng).

7.3.2. Đối với thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng thia đất của hộ ông Lê Trọng L (Ninh Thị Nh):

- Chi phi trích do địa chính thửa đất là 1.897,560 đồng; phi thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 50.000 đồng /01 Giấy chứng nhận.

- Thời gian thực hiện thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tỉnh thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định cho hộ ông Lê Trọng L là 1.947.560 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Lê Trọng L là 5.000.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quả số tiền theo quy định là 3.052.440 đồng (Ba triệu không trăm năm mươi hai nghìn bốn trăm bốn mươi đồng).

7.3.3. Đối với thủ tục tách thửa đất của hộ ông Trần Văn Tr (Lê Hữu Tr):

- Chi phí trích do địa chính thửa đất là 1.932.700 đồng; phi chứng nhận biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp là 40.000 đồng.

- Thời gian thực hiện thủ tục tách thửa là 15 ngày làm việc.

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định cho hộ ông Trần Văn Tr là 1.972.700 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Trần Văn Tr là 5.000.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quá số tiền theo quy định là 3.027.300 đồng (Ba triệu không trăm hai mươi bảy nghìn ba trăm đồng).

7.3.4. Đối với thủ tục nhận tặng cho quyền sử dụng thửa đất của hộ ông Tống Như Th:

- Chi phí trích đo địa chính thửa đất là 2.018.520 đồng; phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 50.000 đồng/01 Giấy chứng nhận, - Thời gian thực hiện thủ tục nhận tặng cho quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

Tổng chi phi Chì nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định cho hộ ông Tống Như Th là 2.068.520 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Tống Như Th là 2.025.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận ít hơn số tiền phải nộp theo quy định là 43.520 đồng (Bốn mươi ba nghìn năm trăm hai mươi đồng).

7.3.5. Đối với thủ tục nhận thừa kể quyền sử dụng thửa đất của hộ ông Ninh Đại Ngh - Chi phí trích đo địa chính thửa đất là 1.932.700 đồng; phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 50.000 đồng/01 Giấy chứng nhận.

- Thời gian thực hiện thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định cho hộ ông Ninh Đại Ngh là 1.982.700 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Ninh Đại Ngh là 2.500.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quá số tiền theo quy định là 517.300 đồng (Năm trăm mười bảy nghìn ba trăm đồng).

7.3.6. Đối với thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định của bản án sau ly hôn của hộ ông Tống Duy Ph (Bùi Thị L):

- Chi phí trích đo địa chính thửa đất là 1.897.560 đồng; phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 100.000 đồng/02 Giấy chứng nhận.

- Thời gian thực hiện thủ tục là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chỉnh theo quy định cho hộ ông Tống Duy Ph là 1.997.560 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Tống Duy Ph 2.000.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quá số tiền theo quy định là 2.440 đồng (Hai nghìn bốn trăm bốn mươi đồng).

7.3.7. Đối với thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo Quyết định của bản án phúc thẩm giải quyết tranh chấp đất đai của hộ ông Lê Văn Ch (Lê Văn Ch):

Chi phí trích đo địa chính thửa đất là 1.897.560 đồng; phí chứng nhận biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp là 40.000 đồng; Phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 200.000 đồng/02 giấy chứng nhận.

Thời gian thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận lần đầu là 30 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định cho hộ ông Lê Văn Ch là 2.137.560 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Lê Văn Ch là 2.000.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận ít hơn số tiền phải nộp theo quy định là 137.560 đồng (Một trăm ba bảy nghìn năm trăm sáu mươi đồng).

7.3.8. Đối với thủ tục tách thửa, nhận thừa kế quyền sử dụng thửa đất của hộ ông Lê Hữu Nh (Lê Thị M):

* Đối với thửa đất số 136:

Thủ tục tách thửa: Chi phí trích đo địa chính thửa đất là 1.897.560 đồng;

phi chứng nhận biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp là 40.000 đồng.

Thời gian thực hiện thủ tục tách thửa là 15 ngày làm việc.

Thủ tục nhận thừa kế: Phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 100.000 đồng/02 Giấy chứng nhận.

Thời gian thực hiện thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

* Đối với thửa đất số 933:

Chi phí trích đo địa chính thửa đất là 1.897.560 đồng; phí chứng nhận biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp là 40.000 đồng; phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 50.000 đồng/01 Giấy chứng nhận. Thời gian thực hiện thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định cho hộ ông Lê Hữu Nh là 4.025.120 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình ông Lê Hữu Nh là 3.000.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận ít hơn số tiền phải nộp theo quy định là 1.025.120 đồng (Một triệu không trăm hai lăm nghìn một trăm hai mươi đồng).

7.3.9. Đối với thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng thửa đất của hộ bà Ninh Thị N (Ninh Quốc A):

- Chi phí trích đo địa chính 02 thửa là 3.916.080 đồng (thửa số 15 là 2.018.520 đồng; thửa số 12 là 1.897.560 đồng); phí chứng nhận biến động vào Giấy chứng nhận đã cấp do chung thửa là 40.000 đồng; phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 100.000 đồng/02 Giấy chứng nhận.

- Thời gian thực hiện thủ tục nhận thừa kế quyền sử dụng đất là 10 ngày làm việc (không tính thời gian thực hiện nghĩa vụ tài chính).

Tổng chi phí Chi nhánh Văn phòng Đăng ký đất đai sẽ thu để giải quyết thủ tục hành chính theo quy định cho hộ bà Ninh Thị N là 4.056.080 đồng. Nếu ông Bùi Huy Đ đã nhận của gia đình bà Ninh Thị N là 8.000.000 đồng, thì trong trường hợp này, ông Bùi Huy Đ đã nhận vượt quá số tiền theo quy định là 3.943.920 đồng (Ba triệu chín trăm bốn ba nghìn chín trăm hai mươi đồng).

Như vậy, với hành vi ông Bùi Huy Đ nhận tiền của 09 hộ gia đình, cá nhân trên để giải quyết hồ sơ đất đai (theo Quy định số 13/QĐ-CQĐT ngày 13/01/2023 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Mô, đã gây thiệt hại thực tế cho 05 hộ dân (hộ bà Ninh Thị N (Ninh Quốc A), hộ ông Lê Trọng Lục (Ninh Thị Nh), họ ông Trần Văn Tr (Lê Hữu Tr), hộ ông Tống Duy Ph (Bùi Thị L), hộ ông Ninh Đại Ngh) là 10.543.400 đồng (Mười triệu, năm trăm bốn mươi ba nghìn, bốn trăm đồng), cụ thể hộ bà Ninh Thị N (Ninh Quốc A) là 3.943.920 đồng; hộ ông Lê Trọng L (Ninh Thị Nh) là 3.052.440 đồng hộ ông Trần Văn Tr (Lê Hữu Tr) là 3.027.300 đồng hộ ông Ninh Đại Ngh là 517.300 đồng và hộ ông Tống Duy Ph (Bùi Thị L) là 2.440 đồng.

Đối với 03 hộ (hộ ông Tống Như Th, hộ ông Lê Văn Ch (Lê Văn Ch), hộ ông Lê Hữu Nh (Lê Thị M), ông Bùi Huy Đ đã thu it hơn 1.206.200 đồng, cụ thể: hộ ông Tống Như Th là 3,520 đồng; hộ ông Lê Văn Ch (Lê Văn Ch) là 137.560 đồng và hộ ông Lê Hữu Nh (Lê Thị M) là 1.025.120 đồng. Nếu 03 hộ này thực hiện các thủ tục của mình, với số tiền ông Bùi Huy Đ đã thu và số tiền phải nộp theo quy định của Nhà nước, thì chưa gây thiệt hại về tiền đối với 03 hộ này.

7.4. Tại Khoản 3 Điều 18 Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định Những việc cán bộ, công chức không được làm liên quan đến đạo đức công vụ: Lợi dụng, lạm dụng nhiệm vụ, quyền hạn sử dụng thông tin liên quan đến công vụ để vụ lợi, do đó ông Đ không được phép nhận tiền bồi dưỡng, tiền cảm ơn, tiền công trong quá trình giải quyết công việc.

7.5. Ông Bùi Huy Đ là Công chức Nhà nước, nhận hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính về đất đai và kéo dài thời gian giải quyết thủ tục hành chính này cho các hộ gia đình, cá nhân ngoài việc ảnh hưởng đến quyền lợi (vật chất và phi vật chất) của người sử dụng đất, còn làm ảnh hưởng lớn đến uy tin của các cơ quan Nhà nước có liên quan, vi phạm các quy định của Nhà nước về giải quyết thủ tục hành chính về đất đai.

Mức độ ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất và uy tín của các cơ quan Nhà nước có liên quan, Người giám định tư pháp theo vụ việc thực hiện giám định không đủ điều kiện, năng lực để xác định.

Nếu ông Bùi Huy Đ là Đảng viên, với những vi phạm của ông Đ đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện Yên Mô nêu trong Quyết định trưng cầu giám định lại số 01/QĐ-CQĐT ngày 10/03/2023 thì ông Đ còn bị xem xét, xử lý kỷ luật về mặt Đảng theo quy định.

Tại bản cáo trạng số: 39/CT- VKS ngày 25/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình đã truy tố bị cáo Bùi Huy Đ về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, theo khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị.

Tuyên bố bị cáo Bùi Huy Đ phạm tội: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Áp dụng khoản 1, khản 4 Điều 356; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự xử phạt Bùi Huy Đ từ 24 (Hai mươi bốn) tháng đến 30 (Ba mươi) tháng Cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự nhận được quyết định thi hành án, bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn Yên Thịnh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách Nh phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Phạt bổ sung bị cáo từ 15.000.000đồng (Mười lăm triệu đồng) đến 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng), khấu trừ từ 5% đến 10% thu nhập hằng tháng của bị cáo sung ngân sách Nhà nước.

Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ điểm a, c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13.

Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại số 096187xxx3 và 09329xx222.

Trả lại cho bị cáo số tiền 39.325.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã nêu, nhất trí với luận tội của kiểm sát viên, không có ý kiến tranh luận, bào chữa và xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã ra các Quyết định tố tụng; thực hiện đúng, đầy đủ các hành vi tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập; người tham gia tố tụng cung cấp đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng, phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét công khai tại phiên tòa có đủ cơ sở xác định: Trong khoảng thời gian từ tháng 5/2019 đến ngày 19/9/2022, Bùi Huy Đ là công chức địa chính, nông nghiệp, xây dựng và môi trường xã Yên Hưng, huyện Yên Mô vì vụ lợi đã có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ, làm trái công vụ trong việc tiếp nhận hồ sơ, giải quyết các thủ tục đất đai. Bùi Huy Đ đã nhận tiền và gây thiệt hại cho 06 cá nhân với tổng số tiền là 24.396.400 đồng, cụ thể gây thiệt hại cho anh Tạ Xuân H 13.853.000 đồng; ông Ninh Quốc A 3.943.920 đồng; bà Ninh Thị Nh 3.052.440 đồng; anh Lê Hữu Tr 3.027.300 đồng; ông Ninh Đại Ngh là 517.300 đồng và bà Bùi Thị L là 2.440đồng.

Theo quy định tại Điều 356 Bộ luật hình sự “Tội lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” thì 1. Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại về tài sản từ 10.000.000đồng đến dưới 200.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại khác đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

… 4. Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định từ 01 năm đến 05 năm, có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến 100.000.000đồng.

Từ phân tích trên, cho thấy việc khởi tố, truy tố và đưa bị cáo ra xét xử là có căn cứ, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ” theo khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự.

[3] Tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo thành khẩn khai báo ăn năn hối cải; tự nguyễn bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; bị cáo có ông là liệt sỹ, bản thân được tặng thưởng giấy khen trong quá trình công tác và người bị hại (ông Ân) có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Hình phạt: Căn cứ quy định của Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xét thấy: Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng loại, mức hình phạt đối với bị cáo là phù hợp, cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra theo quy định tại khoản 1 Điều 356 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo là Công chức Nhà nước, nhận hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính về đất đai, thu tiền không đúng và kéo dài thời gian giải quyết gây thiệt hại cho các cá nhân ngoài việc ảnh hưởng đến quyền lợi của người sử dụng đất, còn làm ảnh hưởng đến uy tin của các cơ quan Nhà nước có liên quan, vi phạm các quy định của Nhà nước về giải quyết thủ tục hành chính, nên cần áp dụng loại hình phạt theo pháp luật hình sự đối với bị cáo là có căn cứ và cần thiết. Tuy nhiên khi cá thể loại và mức hình phạt cần cân nhắc, ngoài lần phạm tội này, bị cáo chưa vi phạm pháp luật bao giờ, đã khắc phục toàn bộ thiệt hại mà bị cáo đã gây ra, thành khẩn khai báo, thực sự hối hận về hành vi phạm tội của mình, phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên chỉ cần áp dụng loại hình phạt “Cải tạo không giam giữ” đối với bị cáo là đủ điều kiện răn đe, giáo dục bị cáo đồng thời cũng thể hiện được tính khoan hồng, nhận đạo của pháp luật đối với người lần đầu phạm tội. Bị cáo phạm tội có tính chất vụ lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng.

Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13 là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách Nhà nước.

Đối với 02 sim số 096187xxx3 và 09329xx222 là công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng cần tịch thu sung tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, Bùi Huy Đ đã tự nguyện khắc phục hậu quả, trả lại cho anh Tạ Xuân H số tiền 16.500.000 đồng, ông Ninh Quốc A số tiền 8.000.000 đồng, bà Ninh Thị Nh số tiền 5.000.000 đồng, anh Lê Hữu Tr số tiền 3.030.000 đồng; bà Lê Thị M số tiền 3.000.000 đồng, ông Tống Như Th số tiền 2.025.000 đồng, ông Lê Văn Ch số tiền 105.000 đồng, ông Ninh Đại Ngh số tiền 567.300 đồng, bà Bùi Thị L 2.000.000 đồng. Anh H, ông A, bà Nh, anh Tr, ông Th, ông Ch, bà M, ông Ngh, bà L đã nhận đủ số tiền và không có yêu cầu, đề nghị gì thêm nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét giải quyết.

Quá trình điều tra, bị cáo tự nguyện nộp số tiền 39.325.000 đồng để khắc phục hậu quả nhưng bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả xong cho người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên trả lại cho bị cáo.

[7] Trong vụ án, Bùi Huy Đ đã có hành vi tiếp nhận hồ sơ, giải quyết các thủ tục hành chính về đất đai, nhận tiền của hộ bà Lê Thị M, ông Lê Văn Ch và ông Tống Như Th. Tuy nhiên chưa gây thiệt hại về tiền đối với 3 hộ dân này, do vậy những hành vi trên của Bùi Huy Đ không phạm tội.

Trong thời gian từ tháng 5/2019, đến tháng 9 năm 2022, khi Đ tiếp nhận hồ sơ, giải quyết thủ tục hành chính đất đai, Đ không báo cáo Chủ tịch UBND xã Yên Hưng là các ông Đặng Viết M, ông Tống Văn L; Giám đốc Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô là các ông Lê Như Q, ông Nguyễn Văn T; ông M, ông L, ông Q, ông T không chỉ đạo, không biết hành vi phạm tội của bị cáo nên không vi phạm pháp luật. Các anh Dương Văn H, Đào Sỹ L, Dương Quang Th, Ngô Việt H, Phạm Văn Tr là cán bộ đo đạc của Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện Yên Mô không biết Đ nhận tiền của các hộ dân, không hưởng lợi, không bàn bạc giúp Đ để vụ lợi do đó hành vi của các H, L, Th, H, Tr không vi phạm pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Áp dụng khoản 1, khoản 4 Điều 356; điểm b, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 36 Bộ luật hình sự.

2. Tuyên bố bị cáo Bùi Huy Đ phạm tội: “Lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ”.

Xử phạt bị cáo Bùi Huy Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng cải tạo không giam giữ. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày Cơ quan thi hành án hình sự nhận được quyết định thi hành án, bản sao bản án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn Yên Thịnh, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thi hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Phạt bổ sung bị cáo 15.000.000đồng (Mười lăm triệu đồng), khấu trừ 5% thu nhập hằng tháng của bị cáo sung ngân sách Nhà nước.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Tịch thu sung ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13.

Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại số 096187xxx3 và 09329xx222.

(Cụ thể chi tiết vật chứng, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 26 tháng 7 năm 2023, giữa Công an huyện Yên Mô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô).

4. Trả lại cho bị cáo số tiền 39.325.000 đồng (Ba chín triệu, ba trăm hai lăm nghìn đồng) (theo giấy Ủy nhiệm chi ngày ngày 26 tháng 7 năm 2023 giữa Công an huyện Yên Mô và Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Mô).

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án buộc bị cáo Bùi Huy Đ phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đồng.

Án xử sở thẩm công khai, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người bị hai, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án”. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

87
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 43/2023/HS-ST về tội lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ

Số hiệu:43/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Mô - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;