TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH
BẢN ÁN 166/2021/HS-ST NGÀY 13/12/2021 VỀ TỘI LÀM NHỤC NGƯỜI KHÁC
Ngày 13/12/2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 154/2021/TLST-HS ngày 21/10/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 128/2021/QĐXXST-HS ngày 09/11/2021 đối với bị cáo:
Chu Văn Lộc T, sinh năm 1988, tại huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Nơi ĐKHTT: thôn Nguyệt Cầu, xã Tam G, huyện Yên Phong, tinh Bắc Ninh. Nghề nghiệp: Lao động tự do – Trình độ văn hoá: lớp 11/12.
Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Chu Văn T, sinh năm 1959.
Con bà: Nguyễn Thị N, sinh năm 1966.
Vợ: Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1993 (đã ly hôn). Con: có 02 con lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2014. Tiền án, tiền sự: Không.
Hiện tại ngoại (có mặt tại phiên toà).
Người bào chữa cho bị cáo T là ông Nguyễn Mạnh Cường, ông Nguyễn Văn O – Luật sư Công ty luật TNHHIMC – Đoàn luật sư thành phố Hà Nội.
Địa chỉ: Phòng 1809, Tòa 27A2 Green Stars, số 234 đường Phạm Văn Đ, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội (Ông O có mặt tại phiên tòa ) Người bị hại: chị Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1993.
HKTT: thôn Nguyệt Cầu, xã Tam G, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
Hiện trú tại: thôn Ô Cách, xã Đông T, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (có mặt tại phiên tòa).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, thì nội dụng vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Chu Văn Lộc T và chị Hoàng Thị Thu H là vợ chồng kết hôn từ năm 2014. Khoảng tháng 02 năm 2021, bị cáo T nghi ngờ chị H có quan hệ ngoài hôn nhân với người khác nên giữa bị cáo T và chị H nảy sinh mâu thuẫn. Chị H chuyển ra ngoài thuê trọ và làm thủ tục xin ly hôn với bị cáo T.
Khoảng hơn 20 giờ ngày 16/7/2021, do bực tức chuyện chị H ra ngoài ở riêng nên bị cáo T đã sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 6 plus màu đen của bị cáo T vào mạng xã hội Facebook, đăng nhập tài khoản “T Lộc” tải hình ảnh của chị H kèm bài viết “có con cave aithik giới thiệu nhưng nói trước đcm ko tiền nó giết cả nhà”. Bị cáo T đăng bài viết ở chế độ công khai, những người là bạn bè của T trên Facebook đều có thề xem, bình luận và chia sẻ được bài viết. Sau khi bị cáo T đăng tải bài viết trên Facebook thì có một số người vào bình luận, bị cáo T cũng đã trả lời bình luận của họ. Trong số bạn bè bình luận có tài khoản “Hậu Hoàng” của chị Hoàng Thị Hậu, sinh năm 2002 trú tại: bản Pi Ôa, xã Bình La, huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn (là em gái của chị H) “Bóp cổ, đánh vợ nhập viện cả tuần, gia đình ck k ai can ngăn chỉ đứng xem. Con giun xéo mãi cũng quằn, vơ k dám về nhà lại đổ tội cho vợ là cave, theo trai nhưng bằng chứng thì kco…” Bị cáo T trả lời “đcm vác lồn làm đĩ lại còn già mồn”. Một số tài khoản khác đã bình luận khuyên bị cáo T nên xóa bài viết như “Thanh Hoa” “Loan Loan” “Duy Chu Văn” “Nguyễn Hoa”. Quá trình điều tra xác định được bài viết có 47 lượt like (thích) và 143 lượt bình luận, không có ai chia sẻ bài viết. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, bị cáo T nhận thấy hành vi của mình là sai nên đã tự nguyện xóa bài viết nêu trên.
Trong phần bình luận bài viết, T tag (gắn thẻ) nick Facebook của chị H là “Hoa Hướng Dương” nên chị H đã đọc được bài viết. Sau khi hình ảnh bại viết của bị cáo T được đăng tải, chị H cảm thấy rất xấu hổ với gia đình, bạn bè và đồng nghiệp, người thân, ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh sự, nhân phẩm của chị.
Ngày 17/7/2021 chị H đã làm đơn trình báo đến Công an huyện Yên Phong về toàn bộ nội dụng sự việc.
Về trách nhiệm dân sự: chị Hoàng Thị Thu H không yêu cầu bị cáo T phải bồi thường về mặt dân sự còn về hình sự đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.
Về vật chứng thu giữ: Ngày 21/7/2021 bị cáo T tự nguyện giao nộp 01 chiếc điện thoại Iphone 6 plus màu đen mà bị cáo T sử dụng để đăng bài viết, hình ảnh xúc phạm chị H trên Facebook cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Phong.
Bản cáo trạng số 149/CT-VKSYP ngày 18/10/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong đã truy tố bị cáo Chu Văn Lộc T với tội danh “Làm nhục người khác” theo điểm e, khoản 2, Điều 155 BLHS.
Tại phiên tòa bị cáo T khai nhận: Bị cáo T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo như bản Cáo trạng đã truy tố bị cáo ra trước Tòa để xét xử về tội “Làm nhục người khác” theo điểm e khoản 2, Điều 155 BLHS là đúng người đúng tội và đúng pháp luật không có oan sai gì, còn lý do bị cáo dùng điện thoại để đăng tải bài viết nói xấu chị H là vì thời điểm đó chị H và bị cáo vẫn còn là vợ chồng, bản thân chị H bỏ ra ngoài ở nên bị cáo đăng tải bài viết trên để chị H về chung sống cùng bị cáo, đến khoảng 23 giờ cùng ngày sau khi bị cáo biết việc bị cáo làm là sai trái vi phạm pháp luật bị cáo đã tự tháo dỡ bài viết trên. Còn trước ngày mở phiên tòa lần 2 vào ngày 08 tháng 12 năm 2021 bị cáo có nộp số tiền 10.000.000đ tại Chi cục thi hành án dân sự để khắc phục hậu quả, ngoài ra bị cáo còn cung cấp 01 giấy tặng thưởng Huân huy chương kháng chiến của ông nội bị cáo là Chu Văn Bảo kèm theo đơn đề nghị về việc hiện nay bị cáo đang nuôi con sinh năm 2010, tại phiên tòa bị cáo xin lỗi người bị hại. Nay bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho xã hội cùng các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã kết luận vụ án và giữ nguyên quan điểm đã truy tố, không áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1, Điều 51 BLHS là bồi thường khắc phục hậu quả và khoản 2 Điều 51, bởi lẽ bản thân bị cáo không sống cùng ông nội bị cáo, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Chu Văn Lộc T phạm tội “Làm nhục người khác”. Áp dụng điểm e, khoản 2, Điều 155, điểm i, s khoản 1, Điều 51, Điều 38 BLHS. Xử phạt T từ 06 tháng đến 08 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: không để cập giải quyết.
Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS. Tịch thu xung công quỹ nhà nước 01 điện thoại Iphone 6 plus màu đen đã qua sử dụng.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Về hành vi phạm tội của bị cáo theo bị cáo khai trước phiên tòa là rõ ràng, vi phạm pháp luật ông không có ý kiến gì, xong chỉ trình bày thêm về nguyên nhân lý do mục đích dẫn đến hành vi phạm tội của bị cáo bởi lẽ giữa bị cáo và chị H là vợ chồng, chị H tự ý bỏ ra ngoài ở không cho bị cáo biết địa chỉ cụ thể là chị H đang ở đâu, bị cáo đã nhiều lần gọi điện liên lạc với chị H để vợ chồng về đoàn tụ xong chị H không nghe máy và không đồng ý, bản thân chị H còn có quan hệ với người đàn ông khác nên bị cáo đã có hành vi vi phạm pháp luật dẫn đến phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Xong ông nêu ra một số tình tiết giảm nhẹ của bị cáo như phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bồi thường khắc phục hậu quả, có ông nội được tặng thưởng Huân huy chương kháng chiến, bản thân bị cáo lại một mình phải nuôi con nhỏ, do vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy đình tại điểm a, b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 155 BLHS. Xử phạt T mức cảnh cáo, phạt tiền đề bị cáo còn có điều kiện nuôi dạy con cái.
Kiểm sát viên tranh luận với luật sư: Theo luật sư bảo vệ cho bị cáo trình bày và đưa ra các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm a, b, i, s khoản 1, 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 155 BLHS và đề nghị Hội đồng xử phạt bị cáo T là Cảnh cáo, phạt tiền, quan điểm của kiểm sát không đồng ý với luật sư về các tình tiết giảm nhẹ, khung khoản, Điều luật mà do luật sư đưa ra như áp dụng điểm a, b khoản 1 Điều 51 BLHS, trong suốt quá trình điều tra truy tố từ tháng 7/2021 bị cáo không chủ động gặp người bị hại để xin lỗi hay bồi thường khắc phục hậu quả, đến trước ngày mở phiên tòa lần 2 bị cáo mới nộp tại Cơ quan thi hành án dân sự số tiền 10.000.000đ là không có cơ sở để chấp nhận bởi lẽ người bị hại từ khi khởi tố, truy tố và tại phiên tòa hôm nay chị H là người bị hại vẫn không yêu cầu gì về bồi thường trách nhiệm dân sự, nên không có căn cứ để áp dụng điểm b khoản 1, Điều 51 BLHS. Còn bị cáo có cung cấp cho Hội đồng xét xử là ông nội bị cáo được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, quan điểm của kiểm sát viên là không chấp nhận bởi lẽ ông nội bị cáo không ở cùng bị cáo. Từ những phân tích trên đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo T theo điểm e khoản 2 Điều 155 BLHS.
Luật sư tranh luận với đại diện Viện kiểm sát: Luật sư vẫn giữ nguyên lời trình bày tại phiên tòa hôm nay về các tình tiết giảm nhẹ, khung khoản, điều luật mà luật sư đã phân tích và nêu ở trên luật sư không tranh luận gì thêm.
Bị cáo nhận tội và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tuận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an huyện Yên Phong, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyên Yên Phong trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại. Do vậy các hành vi, quyết định Tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trên đều hợp pháp.
2. Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo khai nhân toàn bộ hành vị phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với đơn trình báo lời khai của người bị hại, người làm chứng, biên bản giao nộp tài liệu đồ vật: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 16/7/2021, tại nhà của bị cáo T. T đã dùng chiếc điện thoại Iphone 6 plus màu đen, sử dụng tài khoản “T Lộc” đăng nhập vào Facebook tải hình ảnh của chị Hoàng Thị Thu H (là vợ của bị cáo T) kèm bài viết “có con cave ai thik giơi thiệu nhưng nói trước đcm ko tiền nó giết cả nhà”. Sau khi bài viết được đăng trên Facebook cá nhân của bị cáo T đã có 47 lượt like (thích) và 143 lượt bình luận, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến danh sự, nhân phẩm của chị H. Do vậy đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội “Làm nhục người khác” theo điểm e khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
3. Về nhân thân tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
Về tình tiết giảm nhẹ thấy: Bị cáo xuất thân từ gia đình nhân dân lao động, sau khi phạm tội tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra bị cáo còn xuất trình giấy chứng nhận được tặng thưởng Huân huy chương kháng chiến hạng ba của ông Chu Văn Bảo là ông nội bị cáo, và biên lai thu tiền của Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong. Hội đồng xét xử thấy việc bị cáo T nộp tiền để khắc phục hậu quả là không có căn cứ để chấp nhận, bởi lẽ kể từ khi khởi tố vụ án, truy tố đến trước ngày mở phiên tòa lần 2 bị cáo mới nộp tiền, mặc khác trong suốt quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa hôm nay chị H là người bị hại vẫn không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên không có cơ sở để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ là bồi thường khắc phục hậu quả được, còn việc ông nội bị cáo được tặng thưởng huân huy chương là đúng cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS là phù hợp. Xong cần bắt bị cáo phải cách ly khỏi xã hội một thời gian nhất định thì mới có thể cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người lương thiện và có ích cho xã hội.
. Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào.
4. Về trách nhiệm dân sự: chị H là người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì về danh dự nhân phẩm của chị, xét thấy yêu cầu trên của chị H là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với pháp luật cần được chấp nhận.
5. Về vật chứng: là chiếc điện thoại di động iPhone 6 plus màu đen, đã qua sử dụng, không lắp sim, số Seri: DX3QJOMXG5QW, số IMEI: 252051075308731 của bị cáo T, bị cáo T đã dùng vào việc đăng tải hình ảnh của chị H, kèm theo bài viết. Xét thấy chiếc điện thoại trên của bị cáo T dùng vào việc phạm tội cần tịch thu xung công quỹ nhà nước. Riêng số tiền bị cáo T nộp tại Chi cục thi hành án dân sự do người bị hại không yêu cầu nên cần trả lại cho bị cáo T.
6. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Chu Văn Lộc T phạm tội “Làm nhục người khác” .
Áp dụng điểm e khoản 2 Điều 155; điểm i, s, khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Chu Văn Lộc T 06 tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Về trách nhiệm dân sự: không đề cập giải quyết.
Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS. Tịch thu xung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại Iphone 6 plus màu đen, đã qua sử dụng, không lắp sim, số Seri: DX3QJOMXG5QW, số IMEI: 252051075308731, trả lại bị cáo Chu Văn Lộc T số tiền 10.000.000đ theo biên lai thu tiền số AA/2021/0002781 ngày 08/12/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong. Hiện vật chứng trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Yên Phong quản lý.
Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Bị cáo Chu Văn Lộc T phải chịu 200.000đ án phí HS-ST .
Bị cáo, người bị hại có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội làm nhục người khác số 166/2021/HS-ST
Số hiệu: | 166/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về