Bản án về tội làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 11/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH , TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 11/2022/HSST NGÀY 26/01/2022 VỀ TỘI LÀM GIẢ, SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 26 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Kỳ Anh xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 66/2021/HSST ngày 21-10-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2021/QĐXXST-HS ngày 02-12- 2021 và Thông báo mở lại phiên tòa số 32/2021/TB-TA ngày 29-12-2021 đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Đức Mạnh C; Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam; Sinh ngày 05 tháng 8 năm 1995; Quê quán: phường x, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ dân phố x, phường x, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh Quốc tịch: Việt Nam. Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 12/12. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng. Con ông: Trần Đức Th, sinh năm: 1962; Con bà: Võ Thị Ph, sinh năm: 1965; Anh, chị, em ruột: Có 02 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường x, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 21/7/2021 đến nay. (Có mặt)

2. Họ và tên: Nguyễn Văn C Tên gọi khác: Không. Giới tính: Nam Sinh ngày 01 tháng 11 năm 1991; Quê quán: phường x, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ dân phố x, phường x, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ văn hóa: 06/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông: Nguyễn Đình M (Đã chết); Con bà: Lê Thị X, sinh năm: 1956; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ hai; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 09/9/2014, bị Tòa án nhân dân nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, xử phạt 12 tháng tù về tội “Đánh bạc” theo bản án số 109/2014/HSPT của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh, đã chấp hành xong bản án và đã được xóa án tích; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường x, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 30/8/2021 đến nay. (Có mặt)

3. Họ và tên: Lê Hữu Th; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 10 tháng 10 năm 1972; Quê quán: phường x, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ dân phố x, phường x, thị xã Kỳ Anh, Hà Tĩnh; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Trình độ văn hóa: 07/10; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Quần chúng; Con ông Lê Hữu T, sinh năm: 1930; Con bà Lê Thị S, sinh năm: 1935; Anh, chị, em ruột: Có 05 người, bị cáo là con thứ ba; Vợ: Dương Thị A, sinh năm: 1972; Con: 03 đứa, đứa lớn nhất sinh năm 1993, đứa nhỏ nhất sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú tại phường x, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 30/8/2021 đến nay. (Có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phan Văn Đ, sinh năm: 1990; Nghề nghiệp: Lao động tự do; địa chỉ: xã x, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)

2. Bà Hoàng Thị Y, sinh năm: 1998; địa chỉ: Tổ dân phố x, phường x, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

3. Ông Hoàng Văn N, sinh năm: 1981; Nghề nghiệp: Công nhân; địa chỉ: Tổ dân phố x, phường x, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

* Người làm chứng: Ông Nguyễn Viết L, sinh năm: 1997; địa chỉ: Thôn, xã, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trần Đức Mạnh C là nhân viên hợp đồng của Công ty thương mại dịch vụ Đức Minh Phong được giao nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa vào Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (gọi tắt là Công ty Formosa Hà Tĩnh). Thực hiện quy định của nhà nước Việt Nam về việc phòng chống Covid-19, Công ty Formosa Hà Tĩnh quy định tất cả mọi người khi đi vào Công ty phải có kết quả xét nghiệm âm tính với vi rút Sat Covi-2 trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày xét nghiệm, nên ngày 25/6/2021, Trần Đức Mạnh C đến Trạm y tế phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh làm xét nghiệm Covid-19 và được Trạm y tế phường Kỳ Long cấp Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm, kết quả âm tính với vị rút Sat Covi-2 và sử dụng giấy xét nghiệm nói trên để đi vào nhập hàng tại Công ty Formosa Hà Tĩnh. Vì thường xuyên phải đi vào Công ty Formosa Hà Tĩnh nên Trần Đức Mạnh C nảy sinh ý định làm giả Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 để tiết kiệm chi phí xét nghiệm. Khoảng 14h30', ngày 27/6/2021 Trần Đức Mạnh C đến phòng trọ của Phan Văn Đ, ở tổ dân phố Long Sơn, phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh mượn máy tính xách tay của Phan Văn Đ để làm giả Phiếu trả lời kết - quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 (anh Đình không biết Trần Đức Mạnh C mượn máy tính để làm giả giấy tờ). Sau khi mượn được máy tính, Trần Đức Mạnh C dùng máy tính soạn thảo Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rut Sat Covi-2 giống như Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 của Trạm tế phường Kỳ Long cấp cho Cường trước đó, nhưng để trống phần họ và tên; ngày tháng năm sinh, địa chỉ; ngày tháng năm làm xét nghiệm và kết quả X nghiệm của người được xét nghiệm. Sau khi soạn thảo xong, Trần Đức Mạnh C chuyển văn bản sang định dạng PDF, rồi dùng điện thoại chụp con dấu, họ tên và chữ ký của bác sỹ Nguyễn Văn Hoành, Trạm trưởng Trạm y tế phường Kỳ Long trong Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 mà Trạm y tế phường Kỳ Long đã cấp cho Cường trước đó, rồi chuyển vào máy tính, làm các thao tác cắt ghép chữ ký, con dấu vào phần cuối văn bản đang soạn thảo thành Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giống như Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 của Trạm y tế phường Kỳ Long. Sau khi thực hiện xong, Trần Đức Mạnh C chuyển văn bản vừa soạn thảo sang tài khoản Zalo trên điện thoại di động của mình rồi đưa đến quán Photocopy Hoàng Ninh, tổ dân phố Nam Phong, phường Kỳ Thịnh, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh để in màu Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 vừa soạn thảo. Khi đến quán Photocopy Hoàng Ninh, do chị Hoàng Thị Y, nhân viên của quán Photocopy bận nhiều khách nên Trần Đức Mạnh C sử dụng máy tính của quán Photocopy Hoàng Ninh, chuyển Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 vừa soạn thảo từ điện thoại của mình vào tài khoản Gmail của quán Photocopy Hoàng Ninh trên máy tính, rồi thao tác trên máy tính và in màu thành 04 bản Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả (chị Yến không biết Trần Đức Mạnh C làm giả giấy tờ). Đến khoảng 08 giờ ngày 28/6/2021, Trần Đức Mạnh C thuê Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C chở hàng vào Công ty Formosa Hà Tĩnh, nhưng khi vào cổng thì bảo vệ của Công ty Fomosa Hà Tĩnh không cho vào vì không có Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2, nên Lê Hữu Th gọi điện thoại cho Trần Đức Mạnh C nói rõ là Công ty Fomosa Hà Tĩnh yêu cầu phải có Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm âm tính với vi rút Sat Covi-2, thì Trần Đức Mạnh C hứa sẽ cho Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả để đi vào Công ty Formosa Hà Tĩnh. Sau khi nhận được điện thoại của Lê Hữu Th, Trần Đức Mạnh C đến cổng Công ty Formosa Hà Tĩnh và đưa cho Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C mỗi người một tờ Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả. Mặc dù biết đó là Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả nhưng Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C điền các thông tin cá nhân của mình, ngày tháng năm làm xét nghiệm và kết quả Âm tính với vi rút Sat Covi-2 trong phần còn để trồng trên phiếu giả, rồi xuất trình qua bảo vệ để đi vào Công ty Formosa Hà Tĩnh. Do không phát hiện được Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 là giả nên bảo vệ cho Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C đi vào Công ty Fomosa Hà Tĩnh để giao hàng. Sau khi Lê Hữ Thái và Nguyễn Văn C đi vào Công ty Formosa Hà Tĩnh thì Trần Đức Mạnh C sử dụng một tờ Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả, điền các thông tin còn để trống trên phiếu, rồi xuất trình Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả cho bảo vệ để đi vào Công ty Fomosa Hà Tĩnh. Do nghi ngờ là giấy tờ giả nên bảo vệ Công ty Fomosa Hà Tĩnh đã giữ lại tờ Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi- 2 của Trần Đức Mạnh C và trình báo Đồn Công an khu kinh tế Vũng Áng, Công an thị xã Kỳ Anh. Đồn Công an khu kinh tế Vũng Áng cử cán bộ đến làm việc, thì Trần Đức Mạnh C khai nhận đó là giấy tờ giả. Đồn Công an khu kinh tế Vũng Áng, Công an thị xã Kỳ Anh lập biên bản thu giữ Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả mà Trần Đức Mạnh C đã xuất trình bảo vệ Công ty Fomosa Hà Tĩnh; đồng thời Trần Đức Mạnh C tự nguyện giao nộp một tờ Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả, nhưng chưa điền đầy đủ thông tin. Sau khi biết sự việc bị bại lộ, Nguyễn Văn C và Lê Hữu Th đã tự nguyện giao nộp 02 tờ Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả cho Đồn Công an khu kinh tế Vũng Áng, Công an thị xã Kỳ Anh và khi báo hành vi phạm tội của mình.

Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh đã trưng cầu giám định 04 Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 thu giữ của Trần Đức Mạnh C, Nguyễn Văn C và Lê Hữu Th với mẫu so sánh kèm theo gồm: Bảng thu mẫu hình dấu tròn đỏ của Trạm y tế Phường Kỳ Long và bảng thu mẫu chữ ký của Bác sĩ Nguyễn Văn Hoành, Trạm trưởng trạm y tế phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Tại Kết luận giám định số 29/PC09-TL, ngày 14/7/2021 của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Hình dấu có nội dung “ỦY BAN NHÂN DÂN THỊ XÃ KỲ ANH, TỈNH HÀ TĨNH, TRẠM Y TẾ PHƯỜNG KỲ LONG” trên mẫu cần giám định không phải là hình đóng dấu trực tiếp; Chữ ký đề tên Nguyễn Văn Hoành trên mẫu cần giám định là chữ ký sao in, không phải do ông Nguyễn Văn Hoành trực tiếp ký ra.

Với hành vi trên, Cáo trạng số 68/CT-VKS-TXKA ngày 18 tháng 10 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố bị cáo Trần Đức Mạnh C về tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại các điểm c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự; Bị cáo Nguyễn Văn C và Lê Hữu Th về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa;

* Các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu.

* Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trần Đức Mạnh C phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Bị cáo Nguyễn Văn C, Lê Hữu Th phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; Đề nghị áp dụng Điểm c Khoản 2 Điều 341; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Đức Mạnh C mức án từ 24 đến 30 tháng tù; Áp dụng Khoản 1 Điều 341; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C mức án từ 6 đến 9 tháng tù; Áp dụng Khoản 1 Điều 341; Điểm i, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Hữu Th mức án từ 6 đến 9 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng tính từ ngày tuyên án; đề nghị tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung - Galaxy A50, màu trắng thu của Trần Đức Mạnh C; Về án phí: Buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Kỳ Anh, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Kỳ Anh, kiểm sát viên quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng không có ý kiến gì khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Đức Mạnh C, Nguyễn Văn C và Lê Hữu Th khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của người có quyền lơi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do đó có đủ cơ sở kết luận: Do thường xuyên đi vào Công ty Fomosa Hà Tĩnh để giao hàng và bắt buộc phải có Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm âm tính với vi rút Sat Covi-2, nên Trần Đức Mạnh C nẩy sinh ý định làm giả Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm - vị rút Sat Covi-2 để tiết kiệm chi phí xét nghiệm. Ngày 27/6/2021, Trần Đức Mạnh C mượn máy tính của Phan Văn Đ; lấy mẫu Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 của Trạm y tế phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh để soạn thảo, chỉnh sửa và cắt ghép mẫu dấu, chữ ký thành Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 của Trạm y tế phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh, nhưng để trống phần Họ và tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ; ngày tháng năm làm xét nghiệm và kết quả xét nghiệm của người được xét nghiệm, rồi đưa đến quán Photocopy Hoàng Ninh, ở phường Kỳ Long in màu thành 04 bản Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả của Trạm y tế Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh. Sau khi làm giả Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2, ngày 28/6/2021, Trần Đức Mạnh C đưa cho Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C mỗi người 01 Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả để xuất trình khi đi vào Công ty Formosa Hà Tĩnh. Mặc dù biết đó là Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả nhưng Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C vẫn xuất trình để được bảo vệ cho đi vào Công ty Formosa Hà Tĩnh. Sau khi Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C xuất trình Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả và được bảo vệ cho vào Công ty Fomosa Hà Tĩnh, Trần Đức Mạnh C cũng sử dụng một tờ Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả, điền các thông tin còn để trống trên phiếu, rồi xuất trình Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả cho bảo vệ để đi vào Công ty Formosa Hà Tĩnh thì bị phát hiện. Với hành vi làm giả 04 bản Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 của Trạm y tế Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh nói trên của Trần Đức Mạnh C đã phạm vào tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại các điểm c, khoản 2, Điều 341 Bộ luật Hình sự. Mặc dù, biết đó là Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả nhưng Trần Đức Mạnh C, Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C vẫn sử dụng để xuất trình cho bảo vệ để đi qua trạm kiểm soát dịch vào Công ty Formosa Hà Tĩnh. Hành vi đó của Trần Đức Mạnh C, Nguyễn Văn C và Lê Hữu Th đã phạm vào tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo quy định tại Khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.

Vì vậy, bản Cáo trạng số 68/CT-VKS-TXKA ngày 18 tháng 10 năm 2021 của Viện kiển sát nhân dân thị xã Kỳ Anh truy tố, đề nghị xét xử bị cáo Trần Đức Mạnh C, Nguyễn Văn C và Lê Hữu Th về tội danh, điều luật quy định như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong vụ án này, Trần Đức Mạnh C vừa làm giả, vừa sử dụng Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả để thực hiện hành vi trái pháp luật, đã phạm vào tội ghép được quy định trong một điều luật; Lê Hữu Th và Nguyễn Văn C sử dụng Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả để thực hiện hành vi trái pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính, đến hoạt động bình thường, đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức nên cần phải xử lý nghiêm trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung đối với xã hội. Tuy nhiên, cũng cần phải xem tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Đối với Phan Văn Đ là người cho Trần Đức Mạnh C mượn máy tính để soạn thảo và Hoàng Thị Y là người cho Trần Đức Mạnh C in Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sat Covi-2 giả, nhưng đều không biết Trần Đức Mạnh C làm giả Phiếu trả lời kết quả xét nghiệm vi rút Sát Covi-2 nên không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Về tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo Trần Đức Mạnh C, Nguyễn Văn C, Lê Hữu Th đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự; Bị cáo Lê Hữu Th được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại Điểm i Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bị cáo Trần Đức Mạnh C từng tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam, tại Tàu 501, Lữ đoàn 125, Vùng 2, Quân chủng Hải quân và có bố Trần Đức Thuần nhiều năm liên tiếp Nhà nước tặng giấy khen đã có thành tích xuất sắc trong công tác Mặt trận và trong công tác xây dựng Đảng, trong thực hiện nhiệm vụ, được tặng Huy hiệu 30 năm tuổi đảng; được tặng, thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì; có mẹ Võ Thị Phức được tặng giấy khen hội viên chi hội phụ nữ tổ dân phố Long Sơn đã có thành tích xuất sắc trong thực hiện xã hội hóa trên địa bàn năm 2020. Bị cáo Lê Hữu Th từng tham gia Quân đội nhân dân Việt Nam tại Lữ đoàn 170; có mẹ Lê Thị Song và bố Lê Hữu Thắng đã từng tham gia dân công hỏa tuyến, tham gia kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và làm nhiệm vụ Quốc tế được hưởng chế độ theo Quyết định 49/2015/QĐ-TTg ngày 14-10-2015 của Thủ tướng Chính phủ; gia đình có hoàn cảnh khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương nên bị cáo Trần Đức Mạnh C và Lê Hữu Th được hưởng thêm các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Mức án mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa là có căn cứ, đủ nghiêm, đúng quy định pháp luật.

* Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

* Về vật chứng của vụ án:

- Xét các vật chứng gồm: 01 (một) máy tính Laptop hiệu Dell màu đen, số ID 00426-OEM-8992662-00400 thuộc sở hữu của anh Phan Văn Đ và 01 (một) Máy in màu hiệu canon, màu đen; 01 (một) chiếc máy tính laptop hiệu Dell, màu đen; 01 (một) chiếc bàn phím máy tính hiệu Acer, màu đen; 01 (một) chuột máy tính, màu đen thuộc sở hữu của anh Hoàng Văn N. Do anh Phan Văn Đ và anh Hoàng Văn N không có lỗi trong việc để cho các bị cáo sử dụng làm công cụ phạm tội nên quá trình điều tra cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh đã trả lại cho các chủ sở hữu là đúng quy định pháp luật.

- Xét vật chứng 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung - Galaxy A50, màu trắng, số Imei 1: 356646100527412, số Imei , Imei 2: 356647100527140 thuộc sở hữu của Trần Đức Mạnh C, là vật chứng bị cáo dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội đang còn có giá trị sử dụng nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Các bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điểm c Khoản 2 Điều 341; Điểm s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trần Đức Mạnh C;

Căn cứ Khoản 1 Điều 341; Điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn C;

Căn cứ Khoản 1 Điều 341; Điểm s, i Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Hữu Th;

Căn cứ Điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 3, Khoản 1 Điều 21; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 và mục A Danh mục án phí, lệ phí Tòa án, ban hành kèm theo Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Đức Mạnh C phạm tội “Làm giả tài liệu của cơ quan, tổ chức; sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

Bị cáo Nguyễn Văn C, Lê Hữu Th phạm tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.

2. Về hình phạt:

2.1. Xử phạt Trần Đức Mạnh C 24 (Hai mươi tư) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

2.2. Xử phạt Nguyễn Văn C 6 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

2.3. Xử phạt Lê Hữu Th 6 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 tính từ ngày tuyên án sơ thẩm Giao bị cáo Lê Hữu Th cho Ủy ban nhân dân phường Kỳ Long, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát giáo dục trong thời gian thử thách được thực hiện theo quy định tại điều 92 Luật thi hành án Hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.

3. Về vật chứng:

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước: 01(một) điện thoại di động hiệu Samsung - Galaxy A50, màu trắng, số Imei 1: 356646100527412, số Imei, Imei 2: 356647100527140, đã qua sử dụng thu của Trần Đức Mạnh C.

(Tình trạng vật chứng trên có tại Biên bản giao nhận vật chứng ngày 20- 10-2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Kỳ Anh với Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Kỳ Anh).

4. Về án phí: Buộc Trần Đức Mạnh C, Nguyễn Văn C và Lê Hữu Th mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

314
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội làm giả, sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức số 11/2022/HSST

Số hiệu:11/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Kỳ Anh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;