TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 201/2023/HS-ST NGÀY 30/11/2023 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Vào ngày 30 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 179/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 874/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 10 năm 2023 đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Ngọc D, sinh ngày 09 tháng 9 năm 1987, tại Hậu Giang; Đăng ký thường trú: Ấp T, xã V, huyện V, tỉnh Hậu Giang; Chỗ ở: Số I, đường N, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Hiệu trưởng Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T2 và bà Nguyễn Ngọc B; vợ: Lê Hoàng Phương T3, sinh năm 1989; có 02 người con, sinh năm 2017 và 2020; tiền án, tiền sự: Chưa.
Bị cáo bị tạm giữ ngày 20/4/2023 đến ngày 27/4/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2/ Lương Nguyễn Duy T4, sinh ngày 20 tháng 6 năm 1977, tại Đồng Tháp; Đăng ký thường trú: Tổ C, khóm D, phường F, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Hiệu trưởng Trường Tiểu học B2, phường D, thành phố C; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lương Ngọc T5 và bà Nguyễn Thị Hồng D1; vợ: Trần Thị Kim X, sinh năm 1976; có 01 người con, sinh năm 2001; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07 tháng 8 năm 2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3/ Phan Minh H, sinh ngày 14 tháng 9 năm 1988, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Thanh tra huyện C; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Quốc D2 và bà Đoàn Thị M (chết); vợ: Trần Thùy T6, sinh năm 1995; bị cáo chưa có con; Tiền án, tiền sự: chưa;
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 04 tháng 5 năm 2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N, thành phố Cần Thơ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
4/ Dương Thị N; sinh ngày 03 tháng 4 năm 1975, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Bán lẻ thuốc tây; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn X1 (chết) và bà Lê Thị S (chết); chồng: Trần Hồng H1, sinh năm 1973; có 02 người con, sinh năm 2000 và 2008; Tiền án, tiền sự: chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
5/ Trần Đức P, sinh ngày 01 tháng 10 năm 1964, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: Ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Kinh doanh dược; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn H2 (chết) và bà Võ Thị P1 (chết); vợ: Nguyễn Ngọc T7, sinh năm 1975; có 02 người con, sinh năm 1995 và 2003; tiền án, tiền sự: chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
6/ Đỗ Thị Huỳnh A, sinh ngày 04 tháng 11 năm 1983, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Bán lẻ thuốc tây; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Văn Đ và bà Huỳnh Thị T8; chồng: Trần Anh V, sinh năm 1971; có 01 người con sinh năm 2010; tiền án, tiền sự: Chưa; Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
7/ Hồ Hoài P2, sinh ngày 02 tháng 9 năm 1997, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: Ấp T, xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Dược sỹ bệnh viện Quân y thành phố C; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn T9 và bà Lê Thị P3; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
8/ Phạm Thị Kim P4, sinh ngày 13 tháng 3 năm 1977, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: Ấp T, thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Bán lẻ thuốc tây; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn H3 và bà Ngô Thị L; chồng: Nguyễn Thanh D3, sinh năm 1972; có 04 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
9/ Nguyễn Minh T10, sinh ngày 28 tháng 8 năm 1983, tại Đồng Tháp; Đăng ký thường trú: Khóm B, phường A, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; Chỗ ở: Số A, đường C, phường H, quận N, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Trình dược tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V1 (chết) và bà Lê Kim H4; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
10/ Lê Phan S1, sinh ngày 23 tháng 6 năm 1990, tại Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: Số C, đường C, phường X, quận N, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Nhân viên Công ty cổ phần D8; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H5 và bà Phan Thị H6; vợ: Đặng Thị Thúy Á, sinh năm 1987; bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
11/ Trần Thị Thúy H7, sinh ngày 09 tháng 02 năm 1988, tại Đồng Tháp; Đăng ký thường trú: Tổ A, ấp H, xà H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Giáo viên mầm non; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Sáu NI (chết) và bà Trần Huỳnh M1; chồng: Nguyễn Thanh L1, sinh năm 1987; có 02 người con, sinh năm 2012 và 2015; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
12/ Nguyễn Thị Huỳnh N2, sinh ngày 01 tháng 11 năm 1992, tại Bến Tre; Đăng ký thường trú: Tổ E, khóm M, phường C, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T1 1, và bà Huỳnh Thị C; chồng: Nguyễn Đặng Minh S2, sinh năm 1989; bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
13/ Trần Thị Hồng S3, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1977, tại Đồng Tháp; Đăng ký thường trú: Tổ 06, T, xã T, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ1 và bà Lê Thị X2; chồng: Lê Văn Đ2, sinh năm 1979; có 01 người con sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
14/ Đào Thị Kim Y, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1986, tại Đồng Tháp; Đăng ký thường trú: Tổ B, ấp H, xã H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Hồng S4 và bà Vồ Thị L2; chồng: Dương Văn D4, sinh năm 1984; có 02 người con, sinh năm 2011 và 2013; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
15/ Trần Thị Anh T12, sinh ngày 03 tháng 6 năm 1985, tại Bến Tre; Đăng ký thường trú: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Tuấn A1 và bà Phạm Thị Hồng H8; chồng: Nguyễn Thế A2, sinh năm 1981; có 02 người con, sinh năm 2010 và 2013; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
16/ Huỳnh Ngọc H9, sinh ngày 04 tháng 03 năm 1984, tại Đồng Tháp; Đăng ký thường trú: Tổ D, Khóm M, phường C, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn H10 và bà Lê Thị E; chồng: Nguyễn Trọng N3, sinh năm 1985; bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
17/ Trần Thị Kim T13, sinh ngày 05 tháng 4 năm 1985, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: Tổ H, ấp C, xã M, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Kế toán; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Thanh C1 và bà Nguyễn Thị Q; chồng: Lê Trọng D5, sinh năm 1982; có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
18/ Lê Thị Thanh H11, sinh ngày 18 tháng 3 năm 1985, tại Đồng Tháp; Đăng ký thường trú: Tổ C, khóm D, phường F, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp; nghề nghiệp: Giáo viên Trường Tiểu học M3, thành phố C; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn P5 và bà Nguyễn Thị X3; chồng: Nguyễn Hoàng V2, sinh năm 1983; có 02 người con, sinh năm 2010 và 2016; tiền án, tiền sự: chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
19/ Nguyễn Phương T14, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1985, tại Cần Thơ; Đăng ký thường trú: số A, đường B, phường B, quận B, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Nội trợ; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn TI5 (chết) và bà Bùi Thị Phương N4; chồng: Trịnh Nhựt M2, sinh năm 1978; có 02 người con, sinh năm 2011 và 2016; tiền án, tiền sự: Chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
20/ Dương Thị Kim L3, sinh ngày 30 tháng 7 năm 1967, tại Thành phố Hồ Chí Minh; Đăng ký thường trú: Ấp P, thị trấn T, huyện V, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Bán lẻ thuốc tây; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Phú L4 (chết) và bà Nguyễn Thị Kim H12 (chết); chồng: Nguyễn Ngọc T16, sinh năm 1961; có 02 người con, sinh năm 1993 và 1997; tiền án, tiền sự: chưa;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo Phan Minh H: Luật sư Nguyễn Thị Mỹ L5 - Văn phòng Luật sư Nguyễn Thị Mỹ L5 thuộc Đoàn Luật sư thành phố C.
Địa chỉ: Số A, đường H, phường T, quận N, thành phố Cần Thơ.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Thời điểm từ năm 2018 đến năm 2022, Nguyễn Ngọc D với chức vụ Hiệu trưởng Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C đã câu kết với Phan Minh H - cán bộ y tế huyện C, thành phố Cần Thơ, Lương Nguyễn Duy T4 - công chức bộ phận tổ chức của Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố C, tỉnh Đồng Tháp làm giả những bằng cấp của các trường Cao đẳng, Đại học cho những người có nhu cầu đặt làm để bổ sung hồ sơ tuyển dụng hoặc xin Chứng chỉ hành nghề Dược, cụ thể: Vào khoảng năm 2018, qua giới thiệu của Huỳnh Văn H13, bị cáo Nguyễn Ngọc D đã gặp trực tiếp bị cáo Phan Minh H - cán bộ y tế huyện C, thành phố Cần Thơ, H đã môi giới cho D làm giả 02 Bằng Tốt nghiệp Trung cấp và Cao đẳng Dược cho bị cáo Trần Đức P với giá 30.000.000 đồng (01 Bằng Tốt nghiệp trung cấp chuyên nghiệp Dược sĩ của Trường T21 và 01 Bằng Cao đẳng Dược sĩ của Trường Cao đẳng Đ3), làm giả 02 bằng Tốt nghiệp Trung học phổ thông và Cao đẳng Dược cho bị cáo Dương Thị N với giá 70.000.000 đồng (01 Bằng Tốt nghiệp Trung học phổ thông của Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố C và 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ của Trường Cao đẳng Đ3). Sau khi làm xong 04 bằng cấp giả theo đúng thông tin do hai bị cáo P, N cung cấp và nhận đủ số tiền 100.000.000 đồng, H được cho 1.500.000 đồng. Sau khi môi giới cho D làm giả 04 bằng cấp cho P và N, H và D thống nhất mỗi bằng cấp D nhận làm giá 30.000.000 đồng sẽ chia cho H 5.000.000 đồng, bằng cấp nhận làm giá 100.000.000 đồng thì chia cho H 15.000.000 đồng; sau đó H đã tiếp tục môi giới cho D làm giả cho bị cáo Phạm Thị Kim P4 01 Bằng Dược sĩ của Trường Đại học N5 với giá 130.000.000 đồng (H được chia 20.000.000 đồng), làm giả cho bị cáo Hồ Hoài P2 02 Bằng Dược sĩ và Điều dưỡng của Trường Cao đẳng Đ3 với giá 60.000.000 đồng (H được chia 10.000.000 đồng); làm giả cho bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A 02 bằng cấp: 01 Bằng Cao đẳng Dược sĩ của Trường Cao đẳng Đ3 và 01 Bằng Dược sĩ của Trường Đại học N5 với giá 120.000.000 đồng (H lấy 18.000.000 đồng). Ngoài nhận làm giả các bằng cấp do bị cáo Phan Minh H môi giới, bị cáo Nguyễn Ngọc D còn trực tiếp gặp và nhận làm giả cho bị cáo Nguyễn Minh T10 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ của Trường Cao đẳng Đ3 với giá 28.000.000 đồng, làm giả cho Lê Phan S1 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ của Trường Cao đẳng Đ3 với giá 30.000.000 đồng, làm giả cho Nguyễn Phương T14 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ của Trường Cao đẳng Đ3 với giá 25.000.000 đồng và làm giả cho bị cáo Dương Thị Kim L3 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ của Trường Cao đẳng Đ3 với giá 25.000.000 đồng. Bị cáo Phan Minh H, sau khi môi giới làm giả cho các bị cáo Trần Đức P, Phạm Thị Kim P4, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Đỗ Thị Huỳnh A các bằng cấp chuyên ngành Dược, bị cáo còn trực tiếp đi sao y, chứng thực các bằng cấp giả và nộp hồ sơ đến Sở Y tế thành phố C để xin cấp Chứng chỉ hành nghề Dược cho hai bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A và Phạm Thị Kim P4. Các bị cáo Trần Đức P, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Nguyễn Minh T10, Lê Phan S1 đều đã nộp các bằng cấp đã đặt làm giả đến Sở Y tế thành phố C để xin cấp chứng chỉ hành nghề Dược. Sau khi rà soát, xác minh từ các Trường Cao đẳng, Đại học, Sở Y tế thành phố C đã có Văn bản kiến nghị Cơ quan điều tra, điều tra xử lý các trường hợp nộp các bằng cấp giả đến Sở Y tế. Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Trần Đức P, Phạm Thị Kim P4, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Đỗ Thị Huỳnh A đều khai nhận bản thân không có bằng cấp chuyên môn để hành nghề D6 và cũng không sắp xếp được thời gian để theo học các khóa học, do có quen biết bị cáo Phan Minh H, thời điểm năm 2108 - 2020 là cán bộ y tế huyện C thường tham gia đoàn kiểm tra các cửa hàng kinh doanh thuốc tây trong địa bàn huyện C, được H nhiều lần gợi ý và đã giúp các bị cáo đặt làm giả bằng Cao đẳng, Đại học để làm hồ sơ xin Sở Y tế cấp Chứng chỉ hành nghề dược phục vụ cho việc hành nghề và kinh doanh sản phẩm Dược. Thông qua giới thiệu của H, các bị cáo Đức P, N, Huỳnh A và Hoài P2 đều cung cấp thông tin cá nhân để đặt làm giả 02 bằng cấp, bị cáo P4 đặt làm giả 01 bằng cấp, các bị cáo đều khai nhận biết rõ những bằng cấp hệ Cao đẳng, Đại học đặt làm đều là giả do thực tế các bị cáo không tham gia các lớp học. Sau khi đã đặt làm giả các bằng cấp các bị cáo đã sử dụng những bằng cấp giả trực tiếp gửi hoặc nhờ H gửi đến Sở Y tế đề được cấp Chứng chỉ hành nghề Dược thì bị phát hiện bằng cấp giả. Các bị cáo Nguyễn Minh T10, Lê Phan S1, Nguyễn Phương T14 và Dương Thị Kim L3 cũng khai nhận biết rõ những bằng cấp đặt làm từ bị cáo D là giả nhưng vì để thuận lợi cho công việc của cá nhân, các bị cáo đã cung cấp thông tin cho bị cáo D để đặt D làm giả bằng Cao đẳng Dược. Sau khi nhận được bằng Cao đẳng giả từ D, bị cáo Nguyễn Minh T10, Lê Phan S1 đã gửi bằng cấp giả này đến Sở Y tế thành phố C để xin cấp Chứng chỉ hành nghề Dược. Riêng hai bị cáo Nguyễn Phương T14 và Dương Thị Kim L3 sợ bị phát hiện nên không sử dụng bằng cấp giả đã đặt làm. Cơ quan điều tra đã thu giữ các bằng cấp mà các bị cáo đã đặt bị cáo H và D làm giả, cụ thể:
- Trần Đức P: 01 Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Trần Đức P, số hiệu B364162, số vào sổ cấp bằng CSG/19/LT/085 ngày 20/5/2019, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa của Trường Cao đẳng Đ3 lập ngày 20/5/2019; 01 Bằng tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp Dược sĩ do Trường T21 cấp cho Trần Đức P, số hiệu B276307, số vào sổ cấp bằng 247/TCCN18 ngày 12/11/2018, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa của Trường T21 ngày 12/11/2018.
- Dương Thị N: 01 Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Dương Thị N, số hiệu: B329548, số vào số cấp bằng: CSG/19/LD/083 ngày 20/06/2019, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa lập ngày 20/06/2019 có đóng dấu tròn của Trường Cao đẳng Đ3; 01 Bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông do Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố C cấp cho Dương Thị N, số hiệu: B1082459, số vào sổ cấp bằng: 2016/55/004/0038; 01 phiếu thu số 00364 ngày 26/03/2019 có đóng dấu tròn của Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C, tên người nộp tiền Dương Thị N số tiền nộp 70.000.000 đồng.
- Nguyễn Minh T10: 01 Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Nguyễn Minh T10, số hiệu B364167, số vào sổ cấp bằng: CSG/19/LT/089 ngày 20/05/2019, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa của Trường Cao đẳng Đ3 ngày 20/05/2019.
- Lê Phan S1: 01 Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Lê Phan S1, số hiệu B364172. số vào sổ cấp bằng: CSG/19/LT/094 ngày 20/05/2019, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa lập ngày 20/05/2019 có đóng dấu tròn của Trường Cao Đẳng Đ3.
Tại Kết luận giám định số 49/KL-KTHS-TL ngày 26/04/2023 của Phòng K - Công an thành phố C, kết luận:
+ 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Dương Thị N, số hiệu B329548, số vào sổ cấp bằng CSG/19/LD/083 ngày 20/6/2019; 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Trần Đức P, số hiệu B364162, số vào sổ cấp bằng CSG/19/LT/085 ngày 20/5/2019; 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Lê Phan S1, số hiệu B364172, số vào sổ cấp bằng: CSG/19/LT/094 ngày 20/5/2019; 01 Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Nguyễn Minh T10, số hiệu B364167, số vào số cấp bằng: CSG/19/LT/089 ngày 20/05/2019, so với bản in mẫu không cùng một bản in ra; hình dấu tròn Trường Cao đẳng Đ3 so với hình dấu tròn có cùng nội dung không cùng con dấu đóng ra; chữ ký ông Lê Lâm S với chữ ký mẫu không phải do một người ký ra.
+ 01 Bằng tốt nghiệp Trung học phổ thông do Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố C cấp cho Dương Thị N, số hiệu: B1082459; số vào sổ cấp bằng: 2016/55/004/0038 ngày 28/11/2016, so với bản in mẫu không cùng một bản in ra; hình dấu tròn Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố C so với hình dấu tròn có cùng nội dung không cùng con dấu đóng ra; chữ ký bà Trần Hồng T17 so với chữ ký mẫu không phải do một người ký ra.
+ 01 Bằng tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp Dược sĩ do Trường T21 cấp cho Trần Đức P, số hiệu B276307, số vào sổ cấp bằng 247/TCCN18 ngày 12/11/2018, so với bản in mẫu không cùng một bản in ra; hình dấu tròn T18 Trung cấp Bách Khoa so với hình dấu tròn có cùng nội dung không cùng con dấu đóng ra; chữ ký ông Hoàng Văn P6 so với chữ ký mẫu không phải do một người ký ra.
- Hồ Hoài P2: 01 Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Điều dường do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Hồ Hoài P2, số hiệu B1547326, số vào sổ cấp bằng CSG- LD/21-074 ngày 15/11/2021, kèm theo 01 bảng điểm kết quả học tập do Trường Cao đẳng Đ3 cấp ngày 15/11/2021; 01 Bằng tốt nghiệp Cao đẳng Dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Hồ Hoài P2, số hiệu B351296, số vào sổ cấp bằng CSG-LD/20-085 ngày 18/6/2020, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khoá do Trường Cao đẳng Đ3 cấp ngày 18/6/2020. Tại Kết luận giám định số 75/KL-KTHS-TL ngày 30/06/2023 của Phòng K - Công an thành phố C, kết luận: hình dấu tròn có nội dung “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐẠI VIỆT SÀI GÒN” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung không phải do cùng một con dấu đóng ra. Chữ ký mang họ tên Lê L6 trên tài liệu cần giám định so với chữ ký của Lê L6 trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một người ký ra.
- Phạm Thị Kim P4: 01 Bằng dược sĩ cấp cho Phạm Thị Kim P4, ngày sinh 13/03/1977, năm tốt nghiệp: 2019, xếp loại: khá, hình thức đào tạo: vừa làm vừa học, do hiệu trưởng PGS. TS Nguyễn Mạnh H14 Trường Đại học N5 ký tên cấp ngày 18/04/2019, số hiệu 538147, số vào sổ cấp bằng 2019/Q2DH14/395, kèm theo 01 bảng điểm toàn khóa cấp ngày 18/04/2019. Tại Kết luận giám định số 111/KL-KTHS-TL ngày 25/08/2023 của Phòng K - Công an thành phố C, kết luận: bản in bằng dược sĩ cần giám định so với bản in trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một bản in in ra. Hình dấu tròn có nội dung “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO, TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGUYỄN TẤT THÀNH” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung đóng trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một con dấu đóng ra.
Chữ ký mang tên Nguyễn Mạnh H14 trên tài liệu cần giám định so với chữ ký của Nguyễn Mạnh H14 trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra.
- Nguyễn Phương T14: 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng danh hiệu cử nhân thực hành dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Nguyễn Phương T14, số hiệu A183425, số vào sổ cấp bằng 22/1194 ngày 18/07/2022, kèm theo 01 Bảng điểm kết quả học tập toàn khoá do Trường Cao đẳng Đ3 cấp ngày 18/07/2022. Tại Kết luận giám định số 99/KL-KTHS-TL ngày 11/08/2023 của Phòng K- Công an thành phố C, kết luận: hình dấu tròn có nội dung “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐẠI VIỆT SÀI GÒN” trên các tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung đóng trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một con dấu đóng ra. Chữ ký mang họ tên Lê L6 trên tài liệu cần giám định so với chữ ký của Lê L6 trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một người ký ra.
- Dương Thị Kim L3: 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng danh hiệu cử nhân thực hành dược sĩ do Trường Cao đẳng Đ3 cấp cho Dương Thị Kim L3, số hiệu A183459, số vào sổ cấp bằng 22/1196, kèm theo 01 Bảng điểm kết quả học tập toàn khoá do Trường Cao đẳng Đ3 cấp ngày 18/07/2022. Tại Kết luận giám định số 122/KL-KTHS-TL ngày 31/08/2023 của Phòng K - Công an thành phố C kết luận: hình dấu tròn có nội dung “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐẠI VIỆT SÀI GÒN” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung đóng trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một con dấu đóng ra. Chữ ký mang tên Lê L6 trên tài liệu cần giám định so với chữ ký của Lê L6 trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một người ký ra.
Riêng bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A khai sau khi bị phát hiện hành vi phạm tội, bị cáo Phan Minh H đã yêu cầu Huỳnh A đốt bỏ 02 bằng Cao đẳng và Đại học ngành dược đã làm giả, Huỳnh A đã đốt bỏ 02 bằng cấp giả theo lời của H nên không còn bản gốc để giao nộp cho Cơ quan điều tra. Theo kết quả trả lời của Trường Cao đẳng Đ3 và Trường Đại học N5 xác định bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A không có dữ liệu học tập và tốt nghiệp của trường.
Mở rộng điều tra, Cơ quan điều tra xác định cùng thời điểm cuối năm 2020, bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 - công chức bộ phận tổ chức của Phòng Giáo dục và Đào tạo thành phố C, tỉnh Đồng Tháp trao đối với bị cáo Nguyễn Ngọc D về việc mở lớp Cao đẳng Kế toán cho khoảng 30 người đang là nhân viên hợp đồng trong các trường học ở Đồng Tháp để đủ điều kiện tuyển viên chức theo quy định. Sau đó, do chỉ còn các bị cáo Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Kim T13, Huỳnh Ngọc H9, Trần Thị Anh T12, Lê Thị Thanh H11 và Trần Thị Thúy H7 có nhu cầu theo học nên không đủ số lượng học viên để mở lớp và thời gian học kéo dài không kịp thời hạn tuyển viên chức do vậy hai bị cáo D và T4 đã trao đổi với nhóm N2, S3, Y, T13, H11, H9, T12 và H7 nội dung D nhận làm giả Bằng Cao đẳng Kế toán của Trường Cao đẳng C2 và Du lịch cho 08 bị cáo Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Kim T13, Huỳnh Ngọc H9, Trần Thị Anh T12, Lê Thị Thanh H11 và Trần Thị Thúy H7 để kịp bổ sung bằng cấp theo yêu cầu của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đ khi tuyển viên chức; sau đó D sẽ tìm T18 mở lớp Kế toán cho 08 bị cáo theo học, khi có bằng Kế toán thật thì T4 sẽ giúp đổi lại trong hồ sơ của các bị cáo. Nhóm 08 bị cáo N2, S3, Y, T13, H11, H9, T12 và H7 đều đồng ý theo nội dung trao đổi với D và T4 và đã đặt D làm 08 Bằng Cao đẳng Kế toán giả với giá mỗi bằng là 28.000.000 đồng, do bị cáo Trần Thị Thúy H7 sau đó chuyển sang đặt làm giả Bằng Cao đẳng Giáo dục Mầm non nên D lấy thêm 26.000.000 đồng của H7. Do đến thời hạn nộp hồ sơ tuyển viên chức của Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đ nên đầu tháng 01 năm 2022, D và T4 trao đổi và thống nhất làm giả trước Giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời của Trường Cao đẳng C2 để các bị cáo N2, S3, Y, T13, H9, H11, T12 và H7 bổ sung hồ sơ kịp thời gian tuyền viên chức kế toán ngành Giáo dục của tỉnh Đồng Tháp. Sau khi có các Giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời, bị cáo T4 đã nộp giúp hoặc hướng dẫn các bị cáo trên nộp hồ sơ tuyển viên chức, kết quả 08 bị cáo N2, S3, Y, T13, H9, H11, T12 và Huỳnh đều đã được tuyển dụng. Đến khoảng tháng 4 năm 2022, các bị cáo N2, S3, Y, TI3, H9 và H7 đã nhận được B1 Cao đẳng giả do D giao, sau khi chứng thực các bị cáo đã nộp bổ sung cho các trường học nơi công tác. Riêng bị cáo Lê Thị Thanh H11 do đã có B1 Đại học sư phạm tin học của Trường Đại học Đ4 nên bị cáo sử dụng văn bằng này đề được tuyển dụng ngạch giáo viên đồng thời gọi cho bị cáo T4 không nhận bằng Cao đẳng kế toán giả đã đặt làm; bị cáo Trần Thị Anh T12 sao khi nhận bằng Cao đẳng kế toán giả do thấy sai nội dung so với Giấy chứng nhận tốt nghiệp tạm thời, sợ bị phát hiện nên bị cáo đã không nộp bổ sung bằng Cao đẳng giả cho trường nơi bị cáo đang công tác. Tổng số tiền Nguyễn Ngọc D nhận làm 08 bằng giả là 178.000.000 đồng, đã chia cho Lương Nguyễn Duy T4 76.000.000 đồng.
Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Giáo dục mầm non của Trần Thị Thúy H7, số hiệu: B1650437, số vào sổ cấp bằng: CSG/22/MN/327 của Trường Cao đẳng Đ3 cấp ngày 15/03/2022, kèm theo 01 bảng điểm toàn khoá do Trường Cao đẳng Đ3 cấp ngày 15/03/2022 (bị cáo Trần Thị Thúy H7). Tại Kết luận giám định số 75/KL- KTHS-TL ngày 30/06/2023 của Phòng Phòng K - Công an thành phố C kết luận: hình dấu tròn có nội dung “BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO - TRƯỜNG CAO ĐẲNG ĐẠI VIỆT SÀI GÒN” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có cùng nội dung đóng trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một con dấu đóng ra. Chữ ký mang họ tên Lê L6 trên tài liệu cần giám định so với chữ ký của Lê L6 trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một người ký ra.
- 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Kế toán, số hiệu: B861457, số vào sổ cấp bằng: 358/2019 ngày 18/9/2019 của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp cho Trần Thị Anh T12, kèm theo 01 bảng điềm kết quả học tập toàn khóa của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp ngày 18/09/2019 (bị cáo Trần Thị Anh T12). 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Kế toán, số hiệu: B1054289, số vào số cấp bằng: 384/2019 ngày cấp 18/09/2019 của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp cho Nguyễn Thị Huỳnh N2, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khoá của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp ngày 18/09/2019 (bị cáo Nguyễn Thị Huỳnh N2). 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Kế toán, số hiệu: B1054297, số vào sổ cấp bằng: 395/2019 ngày cấp 18/09/2019 do T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp cho Trần Thị Hồng S3, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa của Trường Cao đẳng C2 (bị cáo Trần Thị Hồng S3). 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Kế toán, số hiệu B1054276, số vào sổ cấp bằng: 358/2019 ngày cấp 18/09/2019 của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp cho Đào Thị Kim Y, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khóa của Trường Cao đẳng C2 (bị cáo Đào Thị Kim Y). 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Kế toán, số hiệu: B1054263, số vào sổ cấp bằng: 347/2019 ngày cấp 18/09/2019 của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp cho Trần Thị Kim T13, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khoá của của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp ngày 18/09/2019 (bị cáo Trần Thị Kim T13). 01 Giấy chứng nhận tốt nghiệp (có thời hạn trong thời gian chờ cấp bằng) của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp ngày 15/01/2021 cho Lê Thị Thanh H11 (bị cáo Lê Thị Thanh H11). 01 Bằng Tốt nghiệp Cao đẳng Kế toán, số hiệu: B1054283, số vào sổ cấp bằng: 371/2019 ngày cấp 18/09/2019 của T18 Cao đẳng Công nghệ và D7 nịch cấp cho Huỳnh Thị Ngọc H15, kèm theo 01 bảng điểm Kết quả học tập toàn khoá của T18 Cao đẳng Công nghệ và Du lịch cấp ngày 18/09/2019 (bị cáo Huỳnh Thị Ngọc H15).
Cơ quan điều tra đã trưng cầu giám định các tài liệu đã thu giữ trên. Tại kết luận giám định số 92/KL-KTHS-TL ngày 26/07/2023 của Phòng K - Công an thành phố C, kết luận: hình dấu tròn đóng trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn đóng trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra. Chữ ký mang họ tên Phan Thanh HI6 trên các tài liệu cần giám định so với chữ ký của Phan Thanh H16 trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra.
Qua khám xét nơi công tác tại Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C và nơi ở của bị cáo Nguyễn Ngọc D, Cơ quan điều tra còn phát hiện, thu giữ của bị cáo:
- 01 Bằng Tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp Điện công nghiệp do Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C cấp cho Lê Phú Hải L7, số hiệu B362518, số vào sổ cấp bằng ĐCN19-0485 ngày 15/07/2019. Tại Kết luận giám định số 85/KL-KTHS-TL ngày 14/07/2023 của Phòng K - Công an thành phố C kết luận: bản in Bằng Tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp Điện công nghiệp trên tài liệu cần giám định với bản in trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một bản in in ra. Hình dấu tròn có nội dung “SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ CẦN THƠ-TRƯỜNG TRUNG CẤP HỒNG HÀ TP. CẦN THƠ” trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn có nội dung “SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TP. CẦN TRƯỜNG T” đóng trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một con dấu đóng ra. Chữ ký mang họ tên Nguyễn Trọng T19 trên tài liệu cần giám định so với chữ ký của Nguyễn Trọng TI9 trên các tài liệu mẫu không phải do cùng một người ký ra.
- 01 Bằng Tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp Văn thư- Lưu trữ do Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C cấp cho Trần Thị Thùy V3, số hiệu Bố 19982, số vào số cấp bằng VT0108 ngày 10/02/2017. Tại Kết luận giám định số 93/KL- KTHS-TL ngày 18/07/2023 của Phòng K - Công an thành phố C kết luận: bản in Bằng Tốt nghiệp Trung cấp chuyên nghiệp Văn thư - Lưu trữ trên tài liệu cần giám định so với bản in trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một bản in in ra. Hình dấu tròn đóng trên tài liệu cần giám định so với hình dấu tròn đóng trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một con dấu đóng ra. Chữ ký mang họ tên Nguyễn Trọng T19 trên tài liệu cần giám định so với chữ ký của Nguyễn Trọng T19 trên các tài liệu mẫu so sánh không phải do cùng một người ký ra.
Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ của bị cáo D nhiều đồ vật, tài liệu, đều được lập biên bản thu giữ theo quy định.
Cơ quan điều tra đã thu giữ của Phan Minh H 01 điện thoại di động hiệu Iphone X, số máy MQCT2LL/A sổ seri F2LW2WH6JCLG. 64GB. IMEI: 353049098429368. số điện thoại 0865140988 (89840-4800-07582-4724); thu giữ của L8 Nguyễn Duy T4 01 điện thoại di động hiệu InTinix X695(đã qua sử dụng), IMEI 1: 350217759562925; IMEI 2: 350217759562933 và 02 sim điện thoại số 0941869869 và 0979475767.
Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Ngọc D khai nhận qua môi giới của bị cáo Phan Minh H, Lương Nguyễn Duy T4 và trực tiếp nhận thông tin cá nhân bị cáo đã làm giả tổng cộng 22 bằng tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học và 01 giấy chứng nhận tốt nghiệp cho các bị cáo khác sử dụng để bổ sung hồ sơ hành nghề dược tuyển dụng viên chức. Sau khi đã nhận đầy đủ thông tin để làm bằng cấp giả, bị cáo liên hệ và đặt đối tượng tên Ms L9 làm giả 22 bằng cấp với tổng số tiền 52.000.000 đồng, chia cho bị cáo Phan Minh H 49.500.000 đồng, chia cho bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 76.000.000 đồng, bị cáo còn hưởng lợi 609.500.000 đồng. Đối với 02 bằng Tốt nghiệp giả của Trung cấp Hồng H17 mang tên Lê Phú Hải L7 và Trần Thị Thùy V3, D khai do 02 người này có đến Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C tư vấn học Đại học nhưng không đủ điều kiện về bằng cấp, do muốn đạt chỉ tiêu tư vấn, bị cáo đã tự đặt làm giả mục đích tạo điều kiện cho L7 và V3 theo học bậc Đại học, tuy nhiên sau khi tư vấn Lê Phú Hải L7 và Trần Thị Thùy V3 đã không đến nộp hồ sơ nên bị cáo vẫn giữ lại 02 bằng giả này.
Bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 cũng thừa nhận hành vi môi giới cho bị cáo Nguyễn Ngọc D làm giả 07 bằng Tốt nghiệp Cao đẳng và 01 Giấy chứng nhận tốt nghiệp và giúp nộp hồ sơ tuyển dụng viên chức cho nhóm 08 bị cáo Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Kim T13, Huỳnh Ngọc H15, Trần Thị Anh T12, Lê Thị Thanh H11 và Trần Thị Thúy Huỳnh. Bị cáo đã nộp lại đầy đủ tiền thu lợi bất chính 76.000.000 đồng. Đối với bị cáo Phan Minh H chưa thành khẩn khai nhận đầy đủ hành vi phạm tội, bị cáo khai chỉ môi giới cho Nguyễn Ngọc D làm giả tổng cộng 05 bằng tốt nghiệp Cao đẳng, Đại học gồm: 01 bằng Cao đẳng dược cho bị cáo Trần Đức P, 02 bằng cho bị cáo Dương Thị N, 01 bằng Cao đẳng cho bị cáo Hồ Hoài P2 và 01 bằng Đại học cho bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A, tổng số tiền bị cáo hưởng lợi chỉ 11.500.000 đồng; bị cáo không thừa nhận môi giới cho D làm giả 01 bằng Trung cấp cho bị cáo Trần Đức P, 01 bằng Cao đẳng Dược cho bị cáo Hồ Hoài P2, 01 bằng Cao đẳng Dược cho bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A và 01 bằng Đại học cho bị cáo Phạm Thị Kim P4; đồng thời bị cáo cũng phủ nhận xúi giục bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A đốt bỏ 02 bằng cấp đã đặt làm giả nhưng thừa nhận giúp bị cáo Huỳnh A và P4 nộp các bằng cấp cùng hồ sơ đến Sở Y tế thành phố C để xin cấp Chứng chỉ hành nghề Dược. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Trần Đức P, Đỗ Thị Huỳnh A, Hồ Hoài P2 và Phạm Thị Kim P4 cùng những tài liệu, chứng cứ khác đủ cơ sở xác định bị cáo Phan Minh H đã cùng bị cáo Nguyễn Ngọc D làm giả 09 bằng cấp cho các bị cáo trên và hưởng lợi số tiền 49.500.000 đồng.
Nhóm các bị cáo đặt làm giả và sử dụng bằng Cao đẳng, Đại học chuyên ngành Dược gồm Trần Đức P, Phạm Thị Kim P4, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Đỗ Thị Huỳnh A, Nguyễn Minh T10, Lê Phan S1, Nguyễn Phương T14 và Dương Thị Kim L3 cùng nhóm các bị cáo Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Kim T13, Huỳnh Ngọc H15, Trần Thị Anh T12, Lê Thị Thanh H11 và Trần Thị Thúy Huỳnh đ làm giả và sử dụng bằng, Giấy chứng nhận tốt nghiệp Cao đẳng chuyên ngành kế toán, Sư phạm mầm non cũng đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Riêng hai bị cáo Nguyễn Phương T14 và Dương Thị Kim L3 sợ bị phát hiện nên không sử dụng bằng cấp giả đã đặt làm.
Tại Cáo trạng số: 200/CT-VKSNK ngày 13 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố:
- Bị cáo Nguyễn Ngọc D, Lương Nguyễn Duy T4 về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm a, c khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự;
- Bị cáo Phan Minh H về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm a khoản 3 Điều 341 Bộ luật Hình sự;
- Bị cáo Dương Thị N, Trần Đức P, Đỗ Thị Huỳnh A, Hồ Hoài P2 về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
- Bị cáo Lê Phan S1, Nguyễn Minh T10, Trần Thị Thúy H7, Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Anh T12, Huỳnh Ngọc H15, Trần Thị Kim T13, Phạm Thị Kim P4 về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
- Bị cáo Lê Thị Thanh H11, Nguyễn Phương T14, Dương Thị Kim L3 về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 341 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, * Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên Cáo trạng, không bổ sung gì thêm, đồng thời phân tích tính chất, mức độ, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử như sau:
- Về trách nhiệm hình sự:
+ Bị cáo Nguyễn Ngọc D: Áp dụng điểm a, c khoản 3 Điều 341, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự mức hình phạt từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù. Phạt bổ sung từ 40.000.000 đồng đến 45.000.000 đồng;
+ Bị cáo Lương Nguyễn Duy T4: Áp dụng điểm a, c khoản 3 Điều 341, điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự mức hình phạt từ 02 năm 06 tháng đến 02 năm 09 tháng tù. Phạt bổ sung từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.
+ Bị cáo Phan Minh H: Áp dụng điểm c khoản 3 Điều 341, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự mức hình phạt từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Phạt bổ sung từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.
+ Các bị cáo Dương Thị N, Trần Đức P, Đỗ Thị Huỳnh A, Hồ Hoài P2: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự mức hình phạt từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Phạt bổ sung các bị cáo Dương Thị N, Trần Đức P, Hồ Hoài P2 từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng. Riêng bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A phạt bổ sung từ 30.000.000 đồng đến 35.000.000 đồng.
+ Các bị cáo Lê Phan S1, Nguyễn Minh T10, Phạm Thị Kim P4: Áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự mức hình phạt từ 70.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng.
+ Các bị cáo Trần Thị Thúy H7, Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Anh T12, Huỳnh Ngọc H15, Trần Thị Kim T13: Áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự mức hình phạt từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng.
+ Các bị cáo Lê Thị Thanh H11, Nguyễn Phương T14, Dương Thị Kim L3: Áp dụng khoản 1 Điều 341, điểm i s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự mức hình phạt từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng.
- Về thu lợi bất chính:
+ Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc D nộp số tiền 609.500.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước. Ghi nhận bị cáo đã nộp xong.
+ Buộc bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 nộp lại số tiền 76.000.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước. Ghi nhận bị cáo đã nộp xong.
+ Buộc bị cáo Phan Minh H nộp số tiền 49.500.000 đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước. Bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng, bị cáo còn phải tiếp tục nộp số tiền 39.500.000 đồng.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ Luật Tố tụng hình sự;
+ Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu S5 20 Ultra 5G 256G, tên kiểu thiết bị SM-N986B/DS, IMEI 1: 354626225708746, IMEI 2: 359453165708742, kèm sim số 0901244555 số seri 0841210892273253 của Nguyễn Ngọc D; 01 điện thoại di động hiệu Iphone X (đã qua sử dụng), số máy MQCT2LL/A số seri F2LW2WH6JCLG. 64GB. IMEI: 353049098429368, số điện thoại 0865140988 (89840-4800-07582-4724) của Phan Minh H; 01 điện thoại di động hiệu Infinix X695 (đã qua sử dụng), IMEI 1: 350217759562925; IMEI 2: 350217759562933 và 02 sim điện thoại số 0941869869 và 0979475767 của Lương Nguyễn Duy T4;
+ Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc D 01 máy tính xách tay, nhãn hiệu ACER, màu trắng, loại: V3-371, S/N: NXMPFSV01871702A5A6600 và 01 CPU màu đen “SD” đã qua sử dụng.
* Luật sư Nguyễn Thị Mỹ L5 bào chữa cho bị cáo Phan Minh H trình bày: Thống nhất tội danh và hình phạt của bị cáo mà Viện kiểm sát đã truy tố. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh của bị cáo, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, tại phiên tòa bị cáo thành thật khai báo ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, gia đình bị cáo đã nộp một phần thu lợi bất chính để cân nhắc hình phạt đối với bị cáo.
* Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố. Các bị cáo ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để có điều kiện sớm trở về sinh hoạt, hòa nhập với cộng đồng và chăm lo cho gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã đủ cơ sở đề kết luận.
Từ năm 2018 đến năm 2022, các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Phan Minh H và Lương Nguyễn Duy T4 đã lợi dụng lĩnh vực công tác để thực hiện hành vi làm giả tổng cộng 22 bằng cấp các loại của các Trường Cao đẳng Đ3, Trường Cao đẳng C2 và Du lịch, Trường Đại học N5 và Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố C. Ngoài ra, các bị cáo còn giúp các bị cáo còn lại trong vụ án bổ sung hồ sơ xin cấp Chứng chỉ hành nghề Dược và hồ sơ tuyển dụng viên chức. Trong đó, bị cáo Nguyễn Ngọc D giữ vai trò chính trong vụ án và đã hưởng lợi bất chính số tiền 609.500.000 đồng, bị cáo Phan Minh H giữ vai trò giúp sức cho bị cáo D làm giả, sử dụng 09 bằng cấp, hưởng lợi bất chính 49.500.000 đồng, cùng vai trò như bị cáo H, bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 đã giúp bị cáo D làm giả, sử dụng 08 bằng cấp, chứng nhận và đã hưởng lợi bất chính số tiền 76.000.000 đồng.
Các bị cáo Trần Đức P, Phạm Thị Kim P4, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Đỗ Thị Huỳnh A, Nguyễn Minh T10, Lê Phan S1, Nguyễn Phương T14, Dương Thị Kim L3, Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Kim T13, Huỳnh Ngọc H15, Trần Thị Anh T12, Lê Thị Thanh H11 và Trần Thị Thúy H7 đều nhận thức được những bằng cấp, chứng nhận mà các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Phan Minh H và Lương Nguyễn Duy T4 nhận làm đều là những bằng cấp, chứng nhận giả nhưng vì mục đích cá nhân, các bị cáo đã đồng ý cung cấp thông tin cá nhân để đặt D, H và T4 làm giả bằng cấp, chứng nhận; sau khi nhận được bằng cấp đã đặt làm giả các bị cáo Trần Đức P, Phạm Thị Kim P4, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Đỗ Thị Huỳnh A, Nguyễn Minh T10, Lê Phan S1, Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Kim T13, Huỳnh Ngọc H15, Trần Thị Anh T12 và Trần Thị Thúy H7 đã tự gửi hay nhờ H hoặc T4 gửi bằng cấp giả đến Sở Y tế thành phố C để được cấp Chứng chỉ hành nghề Dược hoặc Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Đồng Tháp để được tuyển dụng viên chức. Riêng hai bị cáo Nguyễn Phương T14 và Dương Thị Kim L3 sợ bị phát hiện nên không sử dụng bằng cấp giả đã đặt làm, bị cáo Lê Thị Thanh H11 không nhận bằng cấp giả đã đặt làm.
Vì vậy, Viện kiểm sát truy tố các bị cáo theo điều khoản luật đã nêu là có căn cứ, đúng pháp luật.
Xét thấy: Các bị cáo là người đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi trách nhiệm hình sự nên phải chịu hậu quả pháp lý do hành vi phạm tội gây ra. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực quản lý hành chính nhà nước về con dấu, tài liệu hoặc giấy tờ khác. Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng một hình phạt nghiêm khắc tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo đề cải tạo, giáo dục giúp các bị cáo thay đổi nhận thức sống, biết đặt mình trong khuôn khổ pháp luật và qua hình phạt cũng để răn đe, trấn áp những tội phạm tương tự.
[3] Về tình tiết giảm nhẹ:
- Các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Lương Nguyễn Duy T4 thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, đã tác động gia đình nộp đầy đủ số tiền thu lợi bất chính; gia đình bị cáo Nguyễn Ngọc D có công với cách mạng, quá trình công tác các bị cáo được nhiều giấy khen, bằng khen là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng, bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 được cơ quan Công an xác nhận có đóng góp hỗ trợ vào việc phá án ma túy trước đây nên bị cáo T4 được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm t Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Bị cáo Phan Minh H: Quá trình điều tra bị cáo chưa thành khẩn khai nhận đầy đủ hành vi phạm tội nhưng tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, gia đình bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng khắc phục một phần số tiền bị cáo thu lợi bất chính, quá trình công tác được tặng nhiều giấy khen, bằng khen nên xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điềm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Các bị cáo Trần Đức P, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Đỗ Thị Huỳnh A thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, quá trình công tác được tặng nhiều giấy khen, bằng khen, các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điềm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
- Các bị cáo Phạm Thị Kim P4, Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Anh T12, Trần Thị Kim Huỳnh Ngọc H18, Trần Thị Thúy H7, Lê Phan S1, Nguyễn Minh T10, Lê Thị Thanh H11, Nguyễn Phương T14, Dương Thị Kim L3 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội quá trình công tác được tặng nhiều giấy khen, bằng khen, các bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết tăng nặng:
- Các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Phan Minh H phạm tội 02 lần trở lên nên phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
- Các bị cáo khác không có tình tiết tăng nặng.
Xét hành vi của các bị cáo trong vụ án đều cố ý thực hiện hành vi phạm tội có tính chất đồng phạm nhưng là đồng phạm giản đơn, do đó cần phải xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của từng bị cáo để có hình phạt tương xứng.
Bị cáo Nguyễn Ngọc D giữ vai trò chính và thu lợi bất chính số tiền lớn hơn nên hình phạt của bị cáo sẽ cao hơn các bị cáo Phan Minh H, Lương Nguyễn Duy T4.
Bị cáo Phan Minh H có 03 tình tiết giảm nhẹ và 01 tình tiết tăng nặng nên mức hình phạt của bị cáo sẽ cao hơn bị cáo Lương Nguyễn Duy T4.
Bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 có 03 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1, 01 tình tiết tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 và không có tình tiết tăng nặng nên Hội đồng xét xử xem xét quyết định hình phạt dưới khung theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015 cho bị cáo.
Các bị cáo Trần Đức P, Dương Thị N, Hồ Hoài P2, Đỗ Thị Huỳnh A phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân, các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng. Nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì cũng không gây nguy hiểm cho xã hội và cũng không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cho các bị cáo được hưởng án treo.
Các bị cáo Phạm Thị Kim P4, Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Anh T12, Trần Thị Kim Huỳnh Ngọc H18, Trần Thị Thúy H7, Lê Phan S1, Nguyễn Minh T10, Lê Thị Thanh H11, Nguyễn Phương T14, Dương Thị Kim L3 phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, các bị cáo có nhân thân tốt nên Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ sức răn đe đối với các bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung:
- Các bị cáo Nguyễn Ngọc D, Lương Nguyễn Duy T4, Phan Minh H, Dương Thị N, Trần Đức P, Đỗ Thị Huỳnh A, Hồ Hoài P2 phải chịu hình phạt bổ sung là hình phạt tiền.
- Miễn hình phạt bổ sung đối với các bị cáo còn lại.
[6] Về biện pháp tư pháp: Đối với số tiền thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi làm giả con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức các bị cáo phải có nghĩa vụ nộp lại cho Ngân sách Nhà nước.
Cụ thể:
Bị cáo Nguyễn Ngọc D phải nộp 609.500.000 đồng, bị cáo đã nộp xong.
Bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 phải nộp 76.000.000 đồng, bị cáo đã nộp xong.
Bị cáo Phan Minh H phải nộp 49.500.000 đồng, bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng, bị cáo còn phải tiếp tục nộp số tiền 39.500.000 đồng.
Đối với số tiền các bị cáo đã nộp thể hiện tại các Biên lai thu tiền số 00001931 ngày 28/9/20223 và 00001934 ngày 13/10/2023.
[7] Đối với đối tượng tên Ms L9 - làm giả bằng cấp cho bị cáo Nguyễn Ngọc D, Cơ quan điều đã xác định tên thật là Nguyễn Thị T20, hiện đang bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh T bắt khởi tố về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” do đó, không xử lý trong vụ án này.
Đối với Huỳnh Văn H13 khi giới thiệu Phan Minh H gặp Nguyễn Ngọc D, H13 chỉ biết H và D trao đổi về việc tuyển sinh, mở lớp cho Trường Trung cấp Hồng Hà thành phố C, H13 không biết và không tham gia làm giả các bằng cấp cùng bị cáo D và H nên Cơ quan điều tra không xử lý đối với Huỳnh Văn H13.
Đối với người tên Lê Phú Hải L7, Trần Thị Thùy V3 do bị cáo D khai không rõ nhân thân lai lịch nên Cơ quan điều tra tiến hành xác minh có căn cứ sẽ xử lý sau.
[8] Về xử lý vật chứng:
- 01 điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu S5 20 Ultra 5G 256G, tên kiểu thiết bị SM-N986B/DS, IMEI 1: 354626225708746, IMEI 2: 359453165708742, kèm sim số 0901244555 số seri 0841210892273253 của Nguyễn Ngọc D; 01 điện thoại di động hiệu Iphone X (đã qua sử dụng), số máy MQCT2LL/A số seri F2LW2WH6JCLG. 64GB. IMEI: 353049098429368, số điện thoại 0865140988 (89840-4800-07582-4724) của Phan Minh H và 01 điện thoại di động hiệu Infinix X695 (đã qua sử dụng), IMEI 1: 350217759562925; IMEI 2: 350217759562933 và 02 sim điện thoại số 0941869869 và 0979475767 của Lương Nguyễn Duy T4 là công cụ, phương tiện các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.
- 01 máy tính xách tay, nhãn hiệu ACER, màu trắng, loại: V3-371, S/N: NXMPFSV01871702A5A6600 và 01 CPU màu đen “SD” đã qua sử dụng không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc D.
[9] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1.1. Căn cứ vào: Điểm a, c khoản 3 Điều 341, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Ngọc D phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc D 03 (Ba) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 20/4/2023.
Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Ngọc D số tiền 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng).
1.2. Căn cứ vào: Điểm a, c khoản 3 Điều 341, điểm b, s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 và Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố: Bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt: Bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 02 (Hai) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 07/8/2023.
Phạt bổ sung bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
1.3. Căn cứ vào: Điểm c khoản 3 Điều 341, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố: Bị cáo Phan Minh H phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức ”.
Xử phạt: Bị cáo Phan Minh H 03 (Ba) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 04/5/2023.
Phạt bổ sung bị cáo Phan Minh H số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). 1.4. Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 341, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố: Các bị cáo Dương Thị N, Trần Đức P, Đỗ Thị Huỳnh A, Hồ Hoài P2 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
- Xử phạt: Bị cáo Dương Thị N 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng. Thời hạn thử thách được tính kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Phạt bổ sung bị cáo Dương Thị N số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
- Xử phạt: Bị cáo Trần Đức P 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng. Thời hạn thử thách được tính kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân thị trấn C, huyện C, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự, Phạt bổ sung bị cáo Trần Đức P số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
- Xử phạt: Bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng. Thời hạn thử thách được tính kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Thị Huỳnh A số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
- Xử phạt: Bị cáo Hồ Hoài P2 24 (Hai mươi bốn) tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 (Bốn mươi tám) tháng. Thời hạn thử thách được tính kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, thành phố Cần Thơ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Phạt bổ sung bị cáo Hồ Hoài P2 số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng).
1.5. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Phan S1, Nguyễn Minh T10, Phạm Thị Kim P4, Trần Thị Thúy H7, Nguyễn Thị Huỳnh N2, Trần Thị Hồng S3, Đào Thị Kim Y, Trần Thị Anh T12, Huỳnh Ngọc H18, Trần Thị Kim T13 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức; tội sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Phan S1 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Minh T10 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Kim P4 70.000.000 đồng (Bảy mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Thúy H7 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Huỳnh N2 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Hồng S3 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Đào Thị Kim Y 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Anh T12 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Ngọc H18 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Trần Thị Kim T13 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
1.6. Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 341, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố: Các bị cáo Lê Thị Thanh H11, Nguyễn Phương T14, Dương Thị Kim L3 phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.
Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Thanh H11 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phương T14 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng);
Xử phạt: Bị cáo Dương Thị Kim L3 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng).
2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015.
- Buộc bị cáo Nguyễn Ngọc D nộp lại tiền thu lợi bất chính: 609.500.000 đồng (Sáu trăm lẻ chín triệu năm trăm nghìn đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước. Bị cáo đã nộp xong.
- Buộc bị cáo Lương Nguyễn Duy T4 nộp lại tiền thu lợi bất chính: 76.000.000 đồng (Bảy mươi sáu triệu đồng) đề sung vào Ngân sách Nhà nước. Bị cáo đã nộp xong.
- Buộc bị cáo Phan Minh H nộp lại tiền thu lợi bất chính: 49.500.000 đồng (Bốn mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng) để sung vào Ngân sách Nhà nước. Bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), bị cáo còn phải tiếp tục nộp số tiền 39.500.000 đồng (Ba mươi chín triệu năm trăm nghìn đồng).
Đối với số tiền các bị cáo đã nộp thể hiện tại các Biên lai thu tiền số 0001931 ngày 28/9/2023 và 0001934 ngày 13/10/2023.
3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu sung quỹ Nhà nước:
+ 01 (Một) điện thoại di động đã qua sử dụng hiệu S5 20 Ultra 5G 256G, tên kiểu thiết bị SM-N986B/DS, IMEI 1: 354626225708746, IMEI 2: 359453165708742, kèm sim số 0901244555 số seri 0841210892273253 của Nguyễn Ngọc D;
+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone X (đã qua sử dụng), số máy MQCT2LL/A số seri F2LW2WH6JCLG. 64GB. IMEI: 353049098429368, số điện thoại 0865140988 (89840-4800-07582-4724) của Phan Minh H;
+ 01 (Một) điện thoại di động hiệu Infinix X695 (đã qua sử dụng), IMEI 1: 350217759562925; IMEI 2: 350217759562933 và 02 sim điện thoại số 0941869869 và 0979475767 của Lương Nguyễn Duy T4.
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc D: 01 (Một) máy tính xách tay, nhãn hiệu ACER, màu trắng, loại: V3-371, S/N: NXMPFSV01871702A5A6600 và 01 (Một) CPU màu đen “SD” đã qua sử dụng.
4. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 201/2023/HS-ST về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức
Số hiệu: | 201/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về