Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 187/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 187/2024/HS-PT NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 30 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 176/2024/TLPT-HS ngày 04 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo Phạm Văn T; do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2024/HS-ST ngày 02/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.

- Bị cáo kháng cáo: Phạm Văn T, sinh năm 1994 tại Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT: Thôn B, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông: Không rõ; con bà Lê Thị T1; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Cao T2 - Văn phòng L1 - Đoàn Luật sư tỉnh L. Có mặt.

Trong vụ án này, còn có người tham gia tố tụng khác không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 27/7/2023, Hạt Kiểm lâm huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng tiến hành kiểm tra các cơ sở nuôi động vật hoang dã trên địa bàn huyện Đ thì phát hiện cơ sở nuôi động vật hoang dã của Phạm Văn K - được Chi cục Kiểm Lâm tỉnh L cấp mã số cơ sở nuôi: IIB-LDG-051 (nuôi cheo cheo), có 02 (hai) Bảng kê lâm sản (Bảng kê lâm sản số 20/012 ngày 05/11/2020 và Bảng kê 22/85 ngày 20/6/2022), nguồn gốc động vật gây nuôi là từ Trại nuôi Lâm Huỳnh L ở ấp T, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, cùng có chữ ký xác nhận của ông Chung Tấn K1 - Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh B và đóng dấu mộc đỏ đó. Tuy nhiên, qua so sánh con dấu, chữ ký của 02 bảng kê lâm sản trên với bảng kê lâm sản số 22/011 ngày 06/01/2022 tại trại nuôi của chị Bùi Thị Ngọc Á tại Thôn H, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng cùng có xác nhận của ông Chung Tấn K1 - Phó Chi cục kiểm lâm tỉnh B thấy không giống nhau nên Hạt kiểm lâm huyện Đ đã tạm giữ 02 bảng kê lâm sản, đồng thời tiến hành xác minh tại Chi cục Kiểm lâm tỉnh B và xác định: Con dấu và chữ ký Chung Tấn K1 - Phó Chi cục kiểm lâm tỉnh Bạc Liêu là không đúng. Chi cục Kiểm lâm tỉnh B không cấp mã số cơ sở nuôi cheo cheo cho chủ lâm sản Lâm Huỳnh L. Nhận thấy hành vi có dấu hiệu của tội Làm giả, sử dụng tài liệu, con dấu giả của cơ quan, tổ chức theo quy định tại Điều 341 BLHS nên đã chuyển hồ sơ đến Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ để điều tra, xác minh theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Đ, Phạm Văn K và Phạm Văn T khai nhận: Vào năm 2020 và năm 2022, Phạm Văn K đã có 02 lần nhờ Phạm Văn T làm giả Bảng kê lâm sản (nguồn gốc Cheo cheo), trong đó có 1 lần làm cho Phạm Văn K Bảng kê lâm sản số 20/012 ngày 05/11/2020 và 01 lần K nhờ T làm cho Phạm Văn T3 bảng kê lâm sản số 22/011 ngày 06/01/2022. Sau đó, K sử dụng bảng kê lâm sản số 20 để đăng ký mã số cơ sở nuôi rồi 03 lần bán 18 (mười tám) con Cheo cheo cho người khác với tổng giá trị 45.000.000đ. Cụ thể như sau:

Vào năm 2015, Phạm Văn K đặt bẫy gà rừng thì bẫy được 02 con Cheo cheo rồi đem về nuôi, gây giống. Đến năm 2020, khi đàn Cheo cheo phát triển lên 10 con thì K nảy sinh ý định bán. Qua tìm hiểu K biết muốn bán Cheo cheo phải chứng minh được nguồn gốc Cheo cheo nên đã tìm người làm “Bảng kê lâm sản giả”. K đã nhờ anh họ là Phạm Văn T. T đồng ý, rồi sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook “Phạm Văn T” liên hệ, thỏa thuận làm “Bảng kê lâm sản giả” để xác nhận nguồn gốc Cheo cheo với một tài khoản có tên “Trại Dúi 48- Đ” ghi địa chỉ 74b N, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Sau đó, qua ứng dụng Messenger, T thỏa thuận làm giả 01 (một) Bảng kê lâm sản tờ số lượng 10 con Cheo cheo với giá 6.000.000đ, rồi Tuyến gửi hình chụp chứng minh nhân dân của K và K đưa tiền mặt cho T chuyển khoản tiền đặt cọc 1.000.000đ cho “số tài khoản 0010146149X, ngân hàng M, nguyen xuan thanh”. Sau đó, tài khoản “Trại Dúi 48- Đ” tiếp tục nhắn tin cho T yêu cầu chuyển hết số tiền còn lại thì sẽ chuyển bảng kê lâm sản cho T qua đường bưu điện. K tiếp tục đưa cho T số tiền 5.000.000đ để T chuyển khoản cho “số tài khoản 001014614X9, ngân hàng M, nguyen xuan thanh”. Khi nhận được tiền, người làm gửi bảng kê lâm sản cho T qua đường bưu điện rồi Tuyến giao lại cho K “01 Bảng kê lâm sản số 20/012 ngày 05/11/2020, nguồn gốc động vật gây nuôi là từ Trại nuôi Lâm Huỳnh L ở ấp T, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, chuyển đến Phạm Văn K, ngày 5 tháng 11 năm 2020, có chữ ký xác nhận của Chung Tấn K1 - Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh B và đóng dấu mộc đỏ ghi Chi cục kiểm lâm tỉnh B”. K mang bảng kê lâm sản giả này đến Hạt Kiểm lâm huyện Đ làm thủ tục đề nghị cấp mã số cơ sở nuôi. Ngày 18/5/2021, Phạm Văn K đã được Chi cục Kiểm lâm tỉnh L cấp mã số cơ sở số IIB-LDG-051. Sau khi được cấp mã số, K đã có 03 lần bán 18 (mười tám) con cheo cheo cho các ông Phạm Văn T4, thôn X, xã Đ; ông Lê V, trú tại P. P, Tx. Đ, tỉnh Quảng Ngãi và ông Trần Tấn Đ, trú tại Ấp S, xã T, huyện T, tỉnh Đồng Nai với tổng giá trị Cheo cheo là 45.000.000 đ (Bốn mươi lăm triệu đồng).

Đến năm 2022, Nguyễn Văn T5, sinh năm 1988, trú tại xã M, huyện Đ cũng có ý định nuôi Cheo cheo nên đã nhờ Phạm Văn K làm giả bảng kê lâm sản số lượng 10 con cho T5. K nói với T5 làm hết 8.000.000 đ (Tám triệu đồng). Tới đồng ý. Sau đó, K tiếp tục nhờ T liên hệ làm bảng kê lâm sản giả cho T5. T đồng ý và liên hệ tài khoản Facebook “Trại Dúi 48 - Đ” rồi thỏa thuận giá làm 01 bảng kê lâm sản số lượng 10 con là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng). T5 chụp ảnh căn cước công dân và đưa số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) để K đưa cho T chuyển khoản cho người nhận làm bảng kê giả. Khi K thông báo cho T5 biết đã có bảng kê lâm sản để T5 chuyển số tiền còn lại 7.000.000 đ (Bảy triệu đồng) nhưng T5 nhờ K bỏ tiền ra trước. Khi K và T nhận được Bảng kê lâm sản số 22/85, nguồn gốc động vật gây nuôi là từ Trại nuôi Lâm Huỳnh L ở ấp T, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, chuyển đến Nguyễn Ngọc T6 28/12/1988, ngày 20 tháng 06 năm 2022, có chữ ký xác nhận của Chung Tấn K1 - Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh B và đóng dấu mộc đỏ ghi Chi cục kiểm lâm tỉnh Bạc Liêu” thì Nguyễn Văn T5 nói không nuôi cheo cheo nữa nên K vẫn giữ bảng kê lâm sản mang tên T5 đến khi bị Hạt kiểm lâm huyện Đ kiểm tra và phát hiện.

Kết quả điều tra xác định người sử dụng số tài khoản 001014614X9, số điện thoại 0933337X đã nhận giao dịch với T làm giả 02 bảng kê lâm sản là Nguyễn Xuân T7, sinh ngày 26/11/1992, trú tại huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Trong tài khoản Facebook “Trại Dúi 48 - Đ” có ghi địa chỉ 74b N, thị trấn K, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Tuy nhiên, qua xác minh hiện Nguyễn Xuân T7 không có mặt tại địa chỉ trên, chính quyền địa phương và gia đình không biết hiện T7 đang làm gì, ở đâu.

Tại bản Cáo trạng số 11/CT-VKSĐT ngày 06 tháng 3 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Phạm Văn K về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại khoản 1 Điều 341 Bộ luật hình sự và tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự. Truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.

Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2024/HSST ngày 02/7/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng đã xử:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn K phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và phạm tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” Áp dụng khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn K 06 (sáu) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Sử dụng con dấu hoặc tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Áp dụng Điều 55 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội buộc bị cáo Phạm Văn K phải chấp hành 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 09/7/2024, bị cáo Phạm Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm, khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xét xử; đồng thời giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng giữ quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo trình bày luận cứ: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt, có hoàn cảnh gia đình khó khăn; là lao động chính, phải nuôi mẹ bị bệnh tật, sau khi có bản án sơ thẩm bị cáo có đến Chi cục thi hành án huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng nhưng bị từ chối; đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận và áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong hạn luật định và đúng quy định nên thời hạn kháng cáo của bị cáo là hợp lệ. Nội dung kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

[2] Năm 2020, Phạm Văn K có nhu cầu xin cấp mã số cơ sở nuôi nhốt động vật hoang dã để mua bán con cheo cheo nên đã nhờ Phạm Văn T tìm người làm giả bảng kê lâm sản. T đồng ý, sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook có tên “Trại Dúi 48 - Đ” liên hệ thỏa thuận làm giấy xác nhận nguồn gốc 10 con cheo cheo với giá 6.000.000đ (sáu triệu đồng). Qua ứng dụng Messenger, T gửi hình chụp chứng minh nhân dân của K và chuyển khoản số tiền 6.000.000đ cho Nguyễn Xuân T7, sinh ngày 26/11/1992, ở tại huyện Đ, tỉnh Đắk Nông qua số tài khoản 001014614X9, số điện thoại 0933337X để làm 01 Bảng kê lâm sản số 20/012 ngày 05/11/2020, nguồn gốc động vật gây nuôi là từ Trại nuôi Lâm Huỳnh L ở ấp T, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, chuyển đến Phạm Văn K, ngày 05/11/2020, có chữ ký xác nhận của Chung Tấn K1 - Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh B và đóng dấu mộc đỏ ghi Chi cục kiểm lâm tỉnh B. Phạm Văn K đã được Chi cục Kiểm lâm tỉnh L cấp mã số cơ sở số IIB-LDG-051 rồi 03 lần bán 18 (mười tám) con cheo cheo cho người khác với tổng giá trị 45.000.000 đồng.

Năm 2022, Nguyễn Văn T5 nhờ Phạm Văn K làm bảng kê lâm sản giả. K nói với T5 làm 01 tờ 10 con cheo cheo hết 8.000.000đ (tám triệu đồng). T5 đồng ý. Sau đó, K tiếp tục nhờ T liên hệ với tài khoản Facebook “Trại Dúi 48 - Đ” để làm bảng kê lâm sản giả và thỏa thuận giá làm giấy 10 con là 7.000.000đ (bảy triệu đồng). Tuyến gửi ảnh căn cước công dân của Nguyễn Văn T5 và chuyển khoản số tiền 7.000.000đ cho Nguyễn Xuân T7, sinh ngày 26/11/1992, ở tại huyện Đ, tỉnh Đắk Nông qua số tài khoản 001014614X9, số điện thoại 0933337X để làm 01 Bảng kê lâm sản số 22/85, nguồn gốc động vật gây nuôi là từ Trại nuôi Lâm Huỳnh L ở ấp T, xã H, huyện P, tỉnh Bạc Liêu, chuyển đến Nguyễn Ngọc T6, ngày 20 tháng 06 năm 2022, có chữ ký xác nhận của Chung Tấn K1 - Phó Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh B và đóng dấu mộc đỏ ghi Chi cục kiểm lâm tỉnh B. Nhưng do T6 không nuôi Cheo cheo nữa nên không lấy bảng kê lâm sản.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án hình sự sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo. Tội phạm và hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo đã được bản án sơ thẩm phân tích, đánh giá và tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” theo điểm b khoản 2 Điều 341 BLHS 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo, HĐXX thấy rằng; khi quyết định hình phạt, bản án sơ thẩm đánh giá hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 xử phạt bị cáo mức án 24 (hai mươi bốn) tháng tù là thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo, xuất trình xác nhận hoàn cảnh khó khăn của địa phương. Tuy nhiên do không đảm bảo quy định của pháp luật về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 BLHS 2015, bị cáo không đủ điều kiện để áp dụng Điều 65 BLHS 2015. Từ những nhận định trên, HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng.

[4] Về án phí: Do kháng cáo không được HĐXX phúc thẩm chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn T.

- Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 23/2024/HSST ngày 04/9/2024 của Tòa án nhân dân huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng.

Xử:

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

2. Về hình phạt:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 24 (hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, hết thời hạn kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 187/2024/HS-PT

Số hiệu:187/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;