TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
BẢN ÁN 104/2024/HS-ST NGÀY 06/09/2024 VỀ TỘI LÀM GIẢ CON DẤU, TÀI LIỆU CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC
Ngày 06 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 88/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 8 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/2024/HSST-QĐ ngày 27 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Kiều S (tên gọi khác: Không), sinh ngày 10/5/1983; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; nơi ĐKTT: Số GN, phường N, quận S, thành phố Đà Nẵng; chỗ ở hiện nay: Số DA, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Hoàng Thị T; gia đình có 05 anh em, bị cáo là con thứ tư; chồng tên là Bùi Ngọc D, sinh năm 1992 (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo tại ngoại (Có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Viết K, sinh năm 1977; địa chỉ: số HĐ, phường A, quận S, thành phố Đà Nẵng (Có đơn xin vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Thị Kiều S sở hữu lô đất tại địa chỉ lô GKhu D, Khu dân cư thu nhập thấp, phường N, quận S, TP. nhưng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã được thế chấp tại Ngân hàng để vay tiền từ năm 2021 cho đến nay. Cha mẹ ruột của Nguyễn Thị Kiều S là ông Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1952), bà Hoàng Thị T (sinh năm 1952) cùng trú GN, phường N, quận S, TP. sở hữu một căn nhà và đất tại GN, phường N, quận S, TP. nhưng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở đã được thế chấp tại Ngân hàng để vay tiền từ năm 2017 cho đến nay.
Do thiếu tiền để trả nợ cho ngân hàng nên tháng 12/2021, Nguyễn Thị Kiều S có liên hệ vợ chồng ông Nguyễn Viết K (sinh năm 1977), bà Trương Thị Kim K1 (sinh năm 1966) cùng trú HĐ, phường A, quận S, TP. để vay tiền thì ông K, bà K1 yêu cầu S phải viết Giấy mượn tiền và yêu cầu S đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của S để làm tin. Lúc đó, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại địa chỉ lô GKhu D, Khu dân cư thu nhập thấp, phường N, quận S, TP. của S đang thế chấp tại ngân hàng nên S đã thuê người khác (không rõ lai lịch) thông qua mạng xã hội để cung cấp thông tin và yêu cầu họ làm giả 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV005284 giống như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật tại lô 77 Khu D, Khu dân cư thu nhập thấp, phường N, quận S, TP Đà Nẵng của Nguyễn Thị Kiều S với giá 5.000.000 đồng. Sau khi làm được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, S đưa Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CV005284 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất thật của S cho bà K1 để vay tiền. Vì ông K, bà K1 biết S có sở hữu nhà và đất nêu trên nên tin tưởng cho S vay tiền nhiều lần với tổng số tiền là 1.300.000.000 đồng, ông K và bà K1 lúc này không biết Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do S đưa là giả. Đến tháng 8/2023, Nguyễn Thị Kiều S đã trả nợ hết số tiền đã vay của vợ chồng ông K, bà K1 và lấy lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CV005284 nêu trên.
Đến tháng 9 năm 2023, Nguyễn Thị Kiều S và cha mẹ ruột của S không còn khả năng trả nợ cho ngân hàng nên muốn bán 02 căn nhà và đất nêu trên để trả nợ. Vì 02 căn nhà, đất nêu trên đang thế chấp tại ngân hàng nên phải tất toán khoản vay thế chấp tại ngân hàng mới bán được, nên Nguyễn Thị Kiều S liên hệ nhờ bà K1 bán giúp 02 căn nhà và đất nêu trên. Tại thời gian nêu trên, bà Trương Thị Kim K1 đang bị bệnh ung thư giai đoạn cuối, không còn tiền cho Nguyễn Thị Kiều S vay trả nợ ngân hàng để rút Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất về để bán nên S và bà K1 thỏa thuận: S làm giả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 02 căn nhà và đất nêu trên và viết 01 Giấy mượn của vợ chồng bà K1 với số tiền 3.570.000.000 đồng giao cho K1 giữ để K1 sử dụng đi mượn tiền của người khác về tất toán khoản vay ngân hàng cho S và gia đình S. Nếu K1 giúp S tất toán được khoản vay ngân hàng thì K1 được trả số tiền 70.000.000 đồng. Nguyễn Thị Kiều S đồng ý thỏa thuận nên đã sử dụng 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CV005284 đứng tên S (do S thuê người khác làm vào năm 2021) và tiếp tục thuê người khác (không rõ lai lịch) thông qua mạng xã hội làm giả thêm 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR729511 mang tên Nguyễn Văn Đ, Hoàng Thị T giống như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thật của cha mẹ S và viết một Giấy mượn tiền ghi ngày 18/9/2023 giao cho bà K1 giữ. Ông Nguyễn Viết K hoàn toàn không biết thỏa thuận trên giữa Nguyễn Thị Kiều S và vợ là Trương Thị Kim K1.
Vào ngày 05/10/2023, bà K1 chết do bị bệnh nên không thể mượn tiền giúp S tất toán khoản vay ngân hàng. Đến tháng 11/2023, ông Nguyễn Viết K thấy trong nhà có 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV005284 đứng tên Nguyễn Thị Kiều S, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BR729511 đứng tên ông Nguyễn Văn Đ (sinh năm 1952), bà Hoàng Thị T (sinh năm 1952) và 01 Giấy mượn tiền ghi ngày 18/9/2023 do Nguyễn Thị Kiều S viết, ký tên mượn số tiền 3.570.000.000 đồng nên ông K nghĩ Kiều S có mượn bà K1 số tiền này nhưng chưa trả. Ông K liên hệ Nguyễn Thị Kiều S để yêu cầu trả tiền nhưng không liên lạc được nên mang 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên đến Văn phòng công chứng kiểm tra thì biết 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giả. Sau đó, ông K làm đơn tố cáo S chiếm đoạt số tiền 3.570.000.000 đồng và làm giả tài liệu gửi đến Cơ quan Công an.
Qua điều tra xác định, Nguyễn Thị Kiều S chỉ ký giấy mượn tiền số tiền 3.570.000.000 đồng nhưng bà K1 chưa đưa số tiền này cho S. Nên ngày 19/02/2024, ông K có yêu cầu rút đơn tố cáo S về hành vi chiếm đoạt số tiền 3.570.000.000 đồng.
* Tài liệu, vật chứng tạm giữ:
- 01 (một) Mẫu "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất" số BR729511, mang tên Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị T, ghi cấp ngày 08/5/2014.
- 01 (một) Mẫu "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất" số CV005284, mang tên Nguyễn Thị Kiều S, ghi cấp ngày 15/7/2020.
Tại Kết luận giám định số 251/KL-KTHS ngày 29/3/2024 của Phòng K2 Công an thành phố Đ xác định 02 Mẫu "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất" số BR729511 và số CV005284 là giả.
* Về dân sự: Không Bản cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 05/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà truy tố bị cáo Nguyễn Thị Kiều S về tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" theo điểm b, c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiều S từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.
Về xử lý vật chứng: Đối với tang vật hiện đang thu giữ gồm 01 mẫu "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất" số BR729511, mang tên Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị T, ghi cấp ngày 08/5/2014 và 01 mẫu "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất" số CV005284, mang tên Nguyễn Thị Kiều S, ghi cấp ngày 15/7/2020 là chứng cứ của vụ án. Đề nghị tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.
Tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và không có ý kiến tranh luận gì với phần luận tội của Kiểm sát viên.
Lời nói sau cùng bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội của mình là vi phạm pháp luật và mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Thị Kiều S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác; các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện. Trong khoảng thời gian vào năm 2021 và năm 2023, tại quận S, thành phố Đà Nẵng, thông qua mạng xã hội, Nguyễn Thị Kiều S đã 02 lần có hành vi cung cấp thông tin và thuê người khác không rõ nhân thân, lai lịch làm giả 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BR729511, mang tên Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị T, ghi cấp ngày 08/5/2014 và 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CV005284 mang tên Nguyễn Thị Kiều S, ghi cấp ngày 15/7/2020 nhằm mục đích sử dụng để mượn tiền của người khác. Do đó hành vi của bị cáo Nguyễn Thị Kiều S đã phạm tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức" theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 341 Bộ luật hình sự như Cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 05 tháng 8 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.
[3] Về tính chất vụ án, hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Do nhu cầu để vay mượn tiền cần có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả, vào năm 2021 và năm 2023, bị cáo Nguyễn Thị Kiều S đã cung cấp thông tin và thuê người khác không rõ lai lịch thông qua mạng xã hội Z để làm giả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CV005284, số BR729511 với giá 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Tuy không trực tiếp làm giả 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nêu trên nhưng bị cáo đã cung cấp thông tin và thuê người khác làm giả. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến hoạt động đúng đắn bình thường của cơ quan nhà nước trong hoạt động quản lý hành chính. Do đó, cần phải xử phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo có nhân thân tốt, không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, hoàn cảnh gia đình khó khăn có chồng đã ly hôn, bị cáo là lao động chính đang nuôi con nhỏ bị rối loạn ngôn ngữ biểu hiện, rối loạn của hoạt động và chú ý nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.
[5] Về hình phạt bổ sung: Đối với bị cáo do nghề nghiệp, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là thỏa đáng.
[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 mẫu "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất" số BR729511, mang tên Nguyễn Văn Đ và Hoàng Thị T, ghi cấp ngày 08/5/2014 và 01 mẫu "Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất" số CV005284, mang tên Nguyễn Thị Kiều S, ghi cấp ngày 15/7/2020 là chứng cứ của vụ án nên tiếp tục lưu trong hồ sơ vụ án.
[7] Về vấn đề khác:
Đối với hành vi Nguyễn Thị Kiều S sử dụng 02 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả và viết 01 Giấy mượn tiền giao cho bà K1 giữ để bà K1 giúp S tất toán khoản vay ngân hàng và bán nhà giúp theo thỏa thuận nhưng đến tháng 10/2023 do bà K1 bị bệnh ung thư chết nên thỏa thuận chưa được thực hiện. Đồng thời, việc trao đổi này bà K1 đã biết được đó là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả. Do đó, hành vi này của S không cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" là có căn cứ.
Đối với việc vào năm 2021, Nguyễn Thị Kiều S sử dụng 01 Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất giả số CV005284 mang tên Nguyễn Thị Kiều S thế chấp cho vợ chồng ông K, bà K1 để nhiều lần vay của vợ chồng ông K, bà K1 với tổng số tiền là 1.300.000.000 đồng. Tuy nhiên, việc vay mượn này S đã trả lại đủ số tiền vay cho vợ chồng ông K, bà K1 theo thỏa thuận vào năm 2023 chứ không có mục đích chiếm đoạt tài sản. Hơn nữa, ông K không tố cáo hành vi của S đối với việc vay mượn số tiền 1.300.000.000 đồng này. Vì vậy, đây là giao dịch dân sự, không cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản".
[8] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo là phù hợp nên HĐXX chấp nhận.
[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị Kiều S phạm tội "Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức".
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 341; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt Nguyễn Thị Kiều S 02 (hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
2. Về án phí: Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí HSST bị cáo Nguyễn Thị Kiều S phải chịu 200.000 đồng.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức số 104/2024/HS-ST
Số hiệu: | 104/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về