Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 29/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG ANA, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 29/2024/HS-ST NGÀY 17/09/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

 Ngày 17 tháng 9 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2024/TLST- HS ngày 23 tháng 8 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2024/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2024, đối với bị cáo:

- Họ và tên: Trần Quốc T, sinh ngày 10/12/1998, tại huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nơi cư tru: Thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nghê nghiệp : Không xác định ; Trình đô hoc vân 7/12; Giới tinh : Nam;

Dân tôc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam.

Con ông Trần Quốc H, sinh năm 1977 và bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1976.

Bị cáo chưa có vợ, con.

Tiên sự: không; Tiên án: Không.

Nhân thân: Ngày 28/6/2016, bị Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 08 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Bản án số 32/2016/HS-ST; Ngày 28/3/2017, bị Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 55/2017/HSST. Tổng hợp hình phạt cua bản án số 32/2016 là 01 năm 08 tháng tù. Bị cáo đã chấp hành xong 02 bản án.

Bị cáo bị bắt tạm giữ tư ngày 21/6/2024 đến ngày 24/6/2024 chuyển sang tạm giam, có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

+ Anh Phạm Như S, sinh năm 1997;

Đia chi : Buôn Ê, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Có đơn xin xét xử văng măt.

- Người liên quan: Ông Đỗ Đăng K, sinh năm 1986.

Đia chi: Khu phố L, Quốc lộ E, thị trấn C, huyện C, tỉnh Long An. Văng măt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nôi dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 00 ngày 02/11/2018, Phạm Như S, trú tại buôn ÉČăm, thị trấn B, huyện K điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47 L1-xxxxx đến tiệm Internet mang tên “Hội quán nét”, ở tổ dân phố F, thị trấn B, huyện K để chơi game. Tại đây, S gặp Trần Quốc T (bạn S), trú tại thôn Q, thị trấn B, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Lúc này, T hỏi S “cho mượn xe đi mua thuốc lá” thì S đồng ý. Sau đó, S đưa cho T chìa khóa chiếc xe mô tô mang biển kiểm soát 47 L1 - xxxxx, trong cốp xe có giấy chứng nhận đăng ký xe và chứng minh nhân dân của S cùng các giây tờ khác . Sau khi mượn được xe mô tô thì T nảy sinh ý định đem chiếc xe mô tô đi cầm lấy tiền tiêu sài. Sau đó, T điều khiển xe mô tô đi đến một tiệm cầm đồ nằm trên đường L, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk cầm cố chiếc xe mô tô được số tiên 15.000.000 đồng. Sau khi cầm cố chiếc xe thì T bắt taxi quay về lại thị trấn B. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, T quay lại tiệm Internet nói với S “xe đã bị Cảnh sát giao thông tạm giữ, để đến sáng ngày hôm sau T sẽ lấy xe ra trả cho anh S”, thì S đồng ý. Sau đó, T không liên lạc với S để trả lại chiếc xe mô tô. Thông qua mạng xã hội Facebook, S nhắn tin đến tài khoản Facebook của T sử dụng có tên “Trần T” thì T nhắn tin vơi nội dung là T đã cầm cố xe mô tô của anh S. Rồi T đã khóa tài khoản Facebook không liên lạc với S nữa. Đến ngày 27/12/2018, S làm đơn tố cáo hành vi của T đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Đắk Lắk để điều tra xử lý. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã tiến hành xác minh, xác định Trần Quốc T đã bỏ trốn khỏi địa phương nên đã ra Quyết định truy nã. Đến ngày 21/6/2024, Trần Quốc T bị bắt theo Quyết định truy nã của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 06/KLĐG, ngày 23/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản huyện K, tỉnh Đắk Lắk kết luận: Giá trị của xe mô tô mang biển kiểm soát 47L1 - xxxxx, tại thời điểm ngày 02/11/2018 là 27.000.000 đồng.

Đối với chiếc xe mô tô 47L1 - xxxxx, sau khi nhận cầm cố thì người nhận cầm cố xe đã bán lại cho người khác (không rõ nhân thân lai lịch), sau đó đến tháng 6/2020, anh Đỗ Đăng K có hộ khẩu thường trú tại thôn B, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông (kinh doanh dịch vụ cầm đồ) đã nhận cầm cố xe mô tô nêu trên với giá 15.000.000 đồng. Đến ngày 29/12/2021, Công an huyện C, tỉnh Đắk Nông tiến hành kiểm tra hành chính, phát hiện chiếc xe 47L1 - xxxxx là tang vật vụ án lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nên đã tiến hành thu giữ chiếc xe mô tô do anh Đỗ Đăng K giao nộp. Đến ngày 07/4/2022, Công an huyện C, tỉnh Đắk Nông đã bàn giao chiếc xe mô tô cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Đắk Lắk để điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Về vật chứng của vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã tiếp tục tạm giữ 01 (một) xe mô tô mang biển số 47L1-xxxxx, nhãn hiệu YAMAHA JUPITER, màu sơn xanh đen. Do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C, tỉnh Đắk Nông thu giữ T anh Đỗ Đăng K chuyển đến.

Quá trình điều tra xác định xe mô tô mang biển số 47L1-xxxxx thuộc sở hữu hợp pháp của anh Phạm Như S. Nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 08/QĐ-ĐTTH, ngày 17/5/2022 trả lại xe mô tô nêu trên cho anh Phạm Như S là chủ sở hữu hợp pháp.

Cáo trạng số 28/CT-VKS-HS ngày 22/8/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana truy tố bị cáo Trần Quốc T vê tôi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa bị cáo khai đã thực hiện hành vi phạm tôi như nôi dung Cáo trạng.

Tại phiên tòa , đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana giữ nguyên nôi dung Cáo trạng , đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Trần Quốc T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

- Vê hình phạt: Đê nghị áp dụng khoản 1, Điêu 175; điểm h, s, khoản 1, 2 Điêu 51 của Bô luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc T tư 12 tháng đến 15 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 08/QĐ-ĐTTH, ngày 17/5/2022 trả lại xe mô tô mang biển số 47L1-xxxxx, nhãn hiệu YAMAHA JUPITER, màu sơn xanh đen cho anh Phạm Như S là chủ sở hữu hợp pháp.

- Về trách nhiệm dân sự : Ngươi bi hai ông Phạm Như S đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì về dân sự cho nên không đặt ra xem xét.

- Vê an phi: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam bị cáo rât ân hận vê hành của mình đã gây ra , xin Hôi đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt , để bị cáo yên tâm cải tạo sớm trở vê gia đình, làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nôi dung vụ án , căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hôi đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Vê hành vi , quyết định tố tụng của Cơ quan điêu tra Công an huyện K, Điêu tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điêu tra , truy tố đã thực hiện đúng vê th ẩm quyên , trình tự thủ tục quy định của Bô luật Tố tụng Hình sự . Quá trình điêu tra và tại phiên tòa , bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai khiếu nại vê hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nôi dung bản Cáo trạng, phù hợp với lơi khai cua bi hai , ngươi liên quan và các tài liệu, chứng cứ được thu thập có trong hồ sơ vụ án . Hôi đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận : Vào khoảng 19 giờ ngày 02/11/2018, Phạm Như S ở thị trấn B, huyện K, giao xe mô tô biển số 47L1-xxxxx cho bạn là Trần Quốc T để mua thuốc lá. Sau đo, T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô đem cầm cố để lấy tiền tiêu xài , gây thiêt hai sô tiên 27.000.000 đông.

Khi thực hiện hành vi phạm tôi bị cáo bình th ường vê thể lực , trí lực, có năng lực chịu trách nhiệm hình sự nên hành vi của bị cáo Trần Quốc T đủ yếu tố câu thành tôi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3]. Viện kiểm sát nhân dân huyện Krông Ana truy tố bị cáo vê tôi “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại Điêu 175 Bô luật hình sự quy định:

“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá tư 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù tư 06 tháng đến 03 năm:

a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;

…..” [4]. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam và vì động cơ tư lợi nên đã cố ý phạm tội. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện để có tác dụng giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét toàn diện về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo.

[5]. Vê tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Vê tinh tiêt tăng năng : Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Vê tình tiết giảm nhẹ : Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa , bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải vê hành vi phạm tôi của mình , bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn , gia đinh bi cao co công cach mang nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h , s khoản 1, 2 Điêu 51 Bô luật hình sự.

[6]. Tư những phân tích, nhận định trên, xét thấy bị cáo Trần Quốc T có nhân thân xâu , ngày 28/6/2016, bị Toà án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 08 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” tại Bản án số 32/2016/HS-ST; Ngày 28/3/2017, bị Toà án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại Bản án số 55/2017/HSST. Tổng hợp hình phạt cua bản án số 32/2016 là 01 năm 08 tháng tù . Bị cáo đã chấp hành xong 02 bản án không xem đo la bai hoc cho ban thân ma lai tiêp tuc phạm tội. Sau khi pham tôi bi cao bo trôn khỏi địa phương gây khó khăn cho Cơ quan Canh sat điêu tra . Do đo , cân phai cach ly bi cao ra khoi đơi sông xa hôi môt thơi gian nhât đinh mơi có tác dụng răn đe , giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội.

[7]. Đối với người nhận cầm cố tài sản tư bị cáo Trần Quốc T: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra , Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để xác định được địa chỉ của cửa hàng cầm đồ và người nhận câm cố tài sản tư bị cao Trần Quốc T, do đó Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ đê xử lý la phu hơp.

[8]. Đối với người đã bán xe mô tô 47L1 - xxxxx cho anh Dương Kim V và anh Nguyễn Cảnh T1: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra không có cơ sở để xác định được địa chỉ cửa hàng cầm đồ mà anh Dương Kim V, anh Nguyễn Cảnh T1 đã mua xe mô tô 47L1-xxxxx, do không có thông tin về người đã bán xe mô tô 47L1 - xxxxx cho anh V và anh T1, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không có căn cứ đê xử lý la phu hơp.

[9]. Đối với hành vi của ông Đỗ Đăng K nhận cầm cố xe mô tô 47L1 - xxxxx T một người khác, không phải người đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô là anh Nguyễn Cảnh T1, khi anh K đang kinh doanh dịch vụ câm đô tại thôn F, xã T, huyện C, tỉnh Đắk Nông, khi nhận câm cô tài sản thì anh K không biết tài sản nhận cầm cố là tài sản do phạm tội mà có, do đó hành vi nhận cầm cố tài sản của anh K không cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, hành vi của anh K đã vi phạm trong lĩnh vực quản lý ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện về an ninh trật tự, vụ việc xảy ra tại huyện C, tỉnh Đắk Nông. Do đó, Cơ quan điều tra đã chuyển vụ việc cho Công an huyện C, tỉnh Đắk Nông để xác minh làm rõ la phu hơp.

[10]. Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Chấp nhận Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 08/QĐ-ĐTTH, ngày 17/5/2022 trả lại xe mô tô mang biển số 47L1-xxxxx, nhãn hiệu YAMAHA JUPITER, màu sơn xanh đen cho anh Phạm Như S là chủ sở hữu hợp pháp.

- Về trách nhiệm dân sự : Ngươi bi hai ông Phạm Như S đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì về dân sự cho nên không đặt ra xem xét.

[11]. Vê án phi : Căn cứ khoản 2 Điêu 136 BLTTHS, Điểm a khoản 1 Điêu 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14.

Bị cáo phải chịu án phi hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

[1]. Về tội danh:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào điêm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc T phạm tội “lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

[2]. Về Điều luật áp dụng và mức hình phạt:

- Áp dụng: Điêm a Khoản 1 Điều 175; điểm h , s khoản 1, 2 Điều 51 Bô luât hinh sư.

+ Xử phạt: Bị cáo Trần Quốc T 01 (môt) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể T ngày tam giư , tạm giam ngày 21/6/2024.

[3]. Các biện pháp tư pháp:

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ các Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Chấp nhận Cảnh sát điều tra Công an huyện K đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 08/QĐ-ĐTTH, ngày 17/5/2022 trả lại xe mô tô mang biển số 47L1-xxxxx, nhãn hiệu YAMAHA JUPITER, màu sơn xanh đen cho anh Phạm Như S là chủ sở hữu hợp pháp.

- Về trách nhiệm dân sự : Ngươi bi hai ông Phạm Như S đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì về dân sự cho nên không đặt ra xem xét.

[4]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Trần Quốc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đông (Hai trăm nghìn đồng).

Bị cáo có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể tư ngày tuyên án . Bị hại , ngươi co quyên lơi , nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể tư ngày nhận được bản án hoặc kể tư ngày bản án được niêm yết hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 29/2024/HS-ST

Số hiệu:29/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông A Na - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;