TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 253/2024/HS-ST NGÀY 30/09/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 9 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 256/2024/TLST-HS ngày 16 tháng 9 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 194/2024/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 9 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Tấn M, sinh năm 1987, tại thành phố Cần Thơ; hộ khẩu thường trú: Khu vực Bình Thường B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ; nghề nghiệp: Thợ cửa sắt; trình độ học vấn: 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1952 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1950; bị cáo có vợ tên Trần Thị H1, sinh năm 1972 (đã ly hôn); bị cáo có 03 con (lớn nhất sinh năm 2008, nhỏ nhất sinh năm 2018); tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt trong trường hợp truy nã và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/3/2024 cho đến nay. Bị cáo có mặt.
- Bị hại: Bà Nhữ Thị Mỹ H2, sinh năm 1983; hộ khẩu thường trú: Khu phố N, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bình Phước. Yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị Thủy T, sinh năm 1993; hộ khẩu thường trú: Khu vực Bình Thường B, phường L, quận B, thành phố Cần Thơ. Yêu cầu xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng: Bà Võ Lê Bảo N, sinh năm 2000. Yêu cầu xét xử vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Tấn M và bà Nhữ Thị Mỹ H2 có quan hệ tình cảm yêu đương với nhau. Khoảng 14 giờ ngày 20/5/2017, bị cáo M đến tiệm H4 thuộc đường D, khu phố F, phường T, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương của bà H2 làm và hỏi mượn bà H2 xe mô tô để đi thành phố Hồ Chí Minh thăm cha của bị cáo M đang bị bệnh nằm ở bệnh viện C, bị cáo hứa đến tối cùng ngày sẽ đem xe về trả cho bị hại. Bị cáo H2 đồng ý và giao xe mô tô hiệu Honda Click, màu đen, biển số 93S1-5xxx cho bị cáo M1. Sau đó, bị cáo M điều khiển xe mô tô đi thăm cha của bị cáo M ở bệnh viện C. Do không có tiền tiêu xài và trả nợ nên bị cáo M nảy sinh ý định đem xe mô tô hiệu Honda Click biển số 93S1-5xxx đi cầm cố lấy tiền. Thực hiện ý định, bị cáo điều khiển xe về quê ở phường L, huyện B, thành phố Cần Thơ rồi đem xe mô tô hiệu Honda Click, biển số 93S1-5xxx đến tiệm C1 thuộc phường L, quận B, thành phố Cần Thơ cầm cố được số tiền 5.000.000 đồng. Tiền có được, bị cáo M tiêu xài và trả nợ hết.
Đến ngày 22/5/2017, bị cáo M đến thị xã B, tỉnh Bình Dương gặp bà H2 và nói dối đang để xe mô tô hiệu Honda Click, biển số 93S1-5xxx ở thành phố Hồ Chí Minh. Bị cáo M hứa sẽ đem xe về trả cho H2 rồi bỏ đi. Đến ngày 22/11/2017, bà H2 vẫn không thấy bị cáo M đem xe về trả nên gọi điện thoại cho bị cáo M nhưng bị cáo M không nghe máy. Sau đó, bà H2 đến Công an phường T, thị xã B trình báo vụ việc. Sau đó, vụ việc được chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã B thụ lý theo thẩm quyền.
Theo Kết luận định giá tài sản ngày 25/12/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thị xã B, kết luận: 01 xe mô tô, hiệu Honda Click, biển số 93S1-5xxx trị giá 17.400.000 đồng.
Ngày 13/3/2024, bị cáo M bị bắt giữ theo Quyết định truy nã số 29/QĐTN-CQĐT-ĐTTH ngày 19/5/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã B.
Tại Cơ quan điều tra Công an thị xã B, bị cáo Nguyễn Tấn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo M phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Qua xác minh về tiệm C1 tại phường L, quận B, thành phố Cần Thơ, Công an phường L trả lời: Do thời gian đã lâu, tiệm C1 đã thay đổi nhiều người quản lý nên không xác định được có cầm xe mô tô biển số 93S1-5xxx hay không.
* Về trách nhiệm dân sự:
- Ngày 09/6/2024, bà Phạm Thị Thủy T là chị dâu của bị cáo Nguyễn Tấn M đã tự bồi thường số tiền 17.400.000 đồng cho bị hại bà Nhữ Thị Mỹ H2 thay cho bị cáo. Bị hại bà Nhữ Thị Mỹ H3 không có yêu cầu gì thêm. Bà T cũng không yêu cầu bị cáo M trả lại số tiền 17.400.000 đồng.
Tại Cáo trạng số 262/CT-VKSBC ngày 13/9/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn M từ 09 tháng đến 11 tháng tù.
- Về xử lý vật chứng: Không thu hồi được nên không đề nghị xem xét giải quyết.
- Về trách nhiệm dân sự: Bà Phạm Thị Thủy T là chị dâu của bị cáo Nguyễn Tấn M đã tự bồi thường số tiền 17.400.000 đồng cho bà Nhữ Thị Mỹ H2. Bà H2 không có yêu cầu gì thêm. Bà T cũng không yêu cầu M trả lại số tiền 17.400.000 đồng. Do đó, không đặt ra xem xét.
Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Tấn M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng số 262/CT-VKSBC ngày 13/9/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai bị hại, lời khai người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Ngày 20/5/2017, tại tiệm H4 thuộc đường D, khu phố F, phường T, thị xã (nay là thành phố ), tỉnh Bình Dương, bị cáo Nguyễn Tấn M có hành vi mượn xe mô tô hiệu Honda Click, biển số 93S1-5xxx trị giá 17.400.000 đồng của bà Nhữ Thị Mỹ H2 để đi công việc, nhưng sau đó nảy sinh ý định chiếm đoạt đem xe đi cầm cố lấy tiền tiêu xài, rồi bỏ trốn. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự. Do đó, Cáo trạng số 256/CT-VKSBC ngày 16 tháng 9 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bến Cát và luận tội của Kiểm sát viên truy tố đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[3] Về tính chất mức độ tội phạm: Tội phạm bị cáo M thực hiện là ít nghiêm trọng do có mức cao nhất khung hình phạt đến 03 năm tù, bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Tội phạm do bị cáo thực hiện đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, về nhận thức bị cáo biết việc chiếm đoạt tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Chỉ do động cơ vụ lợi, muốn có tiền xài và trả nợ nhưng lười lao động, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Để góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự, giữ gìn nếp sống văn minh của địa phương, Hội đồng xét xử xem xét quyết định áp dụng mức án tù có thời hạn tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời nêu gương phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử có xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại. Đó là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có
[6] Nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
[7] Bị cáo phải chấp hành mức hình phạt tù tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.
[8] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Tài sản không thu hồi được nên không đặt ra xem xét.
[9] Trách nhiệm dân sự: Bị hại và gia đình bị cáo đã thỏa thuận giải quyết xong mức bồi thường thiệt hại và bị hại không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Bà Phạm Thị Thủy T không yêu cầu bị cáo hoàn trả lại số tiền đã bồi thường thay cho bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.
[10] Xét ý kiến của Kiểm sát viên về tội danh, mức hình phạt và điều luật áp dụng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[11] Án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; Điều 38; khoản 1 Điều 46; điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự;
Căn cứ Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn M phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn M 10 (mười) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2024.
2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Không đặt ra xem xét.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét.
4. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Nguyễn Tấn M phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
5. Về quyền kháng cáo:
+ Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30/9/2024).
+ Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 253/2024/HS-ST
| Số hiệu: | 253/2024/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 30/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về