TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 143/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 139/2020/HSST ngày 02/12/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 141/2020/HSST-QĐ ngày 16/12/2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Hà Văn H ( Không có tên gọi khác ); Sinh ngày 04/02/1995 tại Đà Bắc, Hòa Bình.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú – nơi cư trú: xóm D, xã T, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hà Văn T và bà Xa Thị T; vợ, con: không có; tiền án, tiền sự: không có; nhân thân: ngày 01/7/2015 bị Công an huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình khởi tố về tội “Cố ý gây thương tích”, ngày 06/8/2015 được đình chỉ điều tra bị can theo yêu cầu của bị hại;
Bị cáo đầu thú ngày 05/11/2020, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Hoàng Văn Tr, sinh năm 1982; nơi cư trú: thôn T, xã Q, huyện Đầm Hà, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Dương Thị T, sinh năm 1975; nơi cư trú: xã H, huyện T, tỉnh Bắc Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn P, sinh năm 1966; nơi cư trú: khu a, phường L, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
3. Ông Bùi Ngọc Kh, sinh năm 1960; nơi cư trú: tổ b, khu H, phường Ninh Dương, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
4. Chị Hà Thị H, sinh năm 1990; nơi cư trú: xóm D, xã T, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
1. Anh Hà Đình Th, sinh năm 1990; nơi cư trú: thôn T, xã P, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt tại phiên tòa.
2. Anh Đinh Công C, sinh năm 1992; nơi cư trú: khu b, phường H, thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hà Văn H từng làm công nhân bốc vác hàng hóa thuê cho anh Hoàng Văn Trí, biết anh Trí có phòng trọ ở khu 4, phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái nhưng hiện anh Trí không ở đấy, nên khoảng tháng 3/2020, H gọi điện thoại cho anh Trí xin ở nhờ phòng trọ. Anh Trí đồng ý và dặn dò H trông coi, quản lý tài sản giúp anh Trí. Đầu tháng 5/2020, H cùng Hà Đình Thăng chuyển đến ở phòng trọ của anh Trí. Được khoảng 1 tuần thì Thăng chuyển về phòng trọ của mình ở Ninh Dương, một mình H ở lại. Do không có tiền tiêu xài, H nảy sinh ý định bán tài sản trong phòng trọ của anh Trí. Khoảng 23 giờ ngày 20/5/2020, sau khi gọi điện thoại cho chị Dương Thị Tâm làm nghề thu mua sắt vụn, đặt vấn đề bán cho chị Tâm 02 bình ga, nồi cơm điện và máy bơm, chị Tâm đồng ý và bảo H mang các tài sản xuống phòng trọ của chị Tâm, H mượn xe máy của Khánh (bạn xã hội, không rõ lai lịch địa chỉ), một mình chở các tài sản trên xuống nhà trọ của chị Tâm, bán cho chị Tâm với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Khoảng 21 giờ ngày 22/5/2020, Hậu gặp và nhờ Khánh chuyển hộ Hậu một số đồ đạc, Khánh đồng ý. Khoảng 00 giờ ngày 23/5/2020, Hậu đi xe mô tô qua đón Khánh ở quán Internet, rồi chở Khánh đến nhà trọ của anh Trí. Tại đây, Khánh đứng ở ngoài, Hậu vào trong phòng trọ bê chiếc ti vi màn hình phẳng. Sau đó, Hậu điều khiển xe máy chở Khánh ôm ti vi ngồi sau. Khi đến nhà chị Tâm, biết Hậu mang chiếc tivi đi bán, Khánh bỏ về không tham gia cùng Hậu. Hậu đưa cho Khánh 1.000.000đ nhưng Khánh không nhận. Sau khi Khánh bỏ đi, Hậu mang chiếc tivi vào nhà chị Tâm bán cho chị Tâm với giá 900.000đ (chín trăm nghìn đồng). Sau đó, Hậu gặp Nhất (bạn bè xã hội, không rõ lai lịch địa chỉ) đặt vấn đề với Nhất lấy tiếp tài sản ở phòng trọ của anh Trí mang đi bán, Nhất đồng ý và yêu cầu Hậu trả tiền công trước cho Nhất 500.000đ (năm trăm nghìn đồng). Sau khi đưa tiền cho Nhất, Hậu và Nhất quay lại phòng trọ của anh Trí, lấy chiếc quạt thổi hơi nước mang đến nhà chị Tâm, bán với giá 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Sau đó cả hai tiếp tục quay lại phòng trọ của anh Trí, lấy chiếc tủ lạnh nhãn hiệu Panasonic mang bán cho chị Tâm với giá 2.000.000đ. Sau đó bị cáo bỏ trốn, đi khỏi thành phố Móng Cái, nhằm mục đích chiếm đoạt số tài sản của anh Trí mà bị cáo đã bán lấy tiền tiêu xài.
Ngày 19/7/2020, sau khi được anh Vũ Viết Thắng là anh vợ thông tin về việc không thấy Hậu ở nhà trọ cũng như các tài sản trong phòng trọ không còn, anh Hoàng Văn Trí xuống Móng Cái, đến phòng trọ kiểm tra, thì phát hiện các tài sản trong phòng trọ không còn nữa. Nghi ngờ Hà Văn Hậu là người đã lấy các tài sản trong phòng trọ, anh Trí đến cơ quan công an trình báo. Hà Văn Thăng, sau khi được anh Vũ Viết Thắng thông tin về việc anh Trí bị mất tài sản, trong một lần cùng anh Đinh Công Chiến đến phòng trọ của chị Dương Thị Tâm (ở cùng dãy trọ với Thăng), phát hiện chiếc tủ lạnh Panasonic giống chiếc tủ lạnh của anh Trí, đã chụp ảnh gửi cho anh Trí và anh Trí xác nhận đúng là chiếc tủ lạnh của anh. Cơ quan điều tra đã thu hồi được các tài sản Hậu đã bán cho chị Tâm và trả lại cho anh Hoàng Văn Trí gồm 01 chiếc tủ lạnh, 01 nồi cơm điện, 02 bình ga. Các tài sản khác không thu hồi được gồm 01 chiếc ti vi – chị Tâm gửi về quê đã bị mất trộm; 01 chiếc quạt – chị Tâm nhờ ông Bùi Ngọc Khanh sửa chữa nhưng không sửa được nên chị Tâm đã bán cho ông Khanh với giá 20.000đ (hai mươi nghìn đồng), ông Khanh đã tháo chiếc quạt để lấy bản mạch điện tử; 01 chiếc máy bơm – do bị hỏng nên chị Tâm đã bán cho ông Nguyễn Văn Phòng với giá 30.000đ (ba mươi nghìn đồng).
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 1018 ngày 21/9/2020 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự thành phố Móng Cái kết luận: 01 chiếc tủ lạnh nhãn hiệu Panasonic, 01 nồi cơm điện, 02 bình ga, 01 tivi, 01 quạt, 01 máy bơm nước mà Hậu chiếm đoạt có tổng trị giá tài sản là 6.450.000đ (sáu triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng).
Quá trình điều tra, sau khi anh Hoàng Văn Trí nhận được những tài sản đã thu hồi, chị của bị cáo là chị Hà Thị Hiền bồi thường cho anh Hoàng Văn Trí 3.000.000đ (ba triệu đồng), bồi thường cho chị Dương Thị Tâm 4.000.000đ (bốn triệu đồng), giữa bị cáo, bị hại và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu bồi thường nào khác. Chị Hà Thị Hiền không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả cho chị số tiền chị đã bỏ ra bồi thường cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Trong quá trình điều tra, bị cáo, bị hại, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng có nội dung lời khai như nội dung vụ án. Ngoài ra, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Dương Thị Tâm có nội dung lời khai thể hiện chị không biết những tài sản chị đã mua của Hậu, do Hậu lấy của anh Trí mang đi bán. Riêng người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn Phòng, do chuyên mua sắt vụn, các đồ cũ của chị Dương Thị Tâm nên không nhớ được đã mua của chị Tâm chiếc máy bơm.
Quá trình điều tra, cơ quan điều tra không xác định được lai lịch địa chỉ của Khánh và Nhật.
Tại Bản cáo trạng số 143/CT-VKS-MC, ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái đã truy tố bị cáo Hà Văn Hậu về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hà Thị Hiền có nội dung lời khai như nội dung vụ án. Ngoài ra bị cáo Hà Văn Hậu còn khai nhận: mặc dù lo sợ anh Hoàng Văn Trí phát hiện bị cáo đã bán các tài sản của anh Trí ở phòng trọ, tuy nhiên sau khi bán các tài sản của anh Trí, bị cáo không bỏ trốn khỏi Móng Cái ngay vì bị cáo còn đợi nhận tiền công của 15 ngày cuối tháng; tại thời điểm bị cáo bán các tài sản của anh Trí, bị cáo không có ý định hoàn trả lại các tài sản này cho anh Trí, nên sau khi nhận được tiền công, bị cáo thay đổi sim điện thoại để anh Trí không liên lạc được, đồng thời đi khỏi Móng Cái không thông báo cho anh Trí. Khi biết được tin anh Trí đang tìm bị cáo thông qua một người bạn, biết không thể trốn tránh được, bị cáo mới liên lạc với anh Trí (khi anh Trí đang ở phòng trọ chị Tâm) để thừa nhận hành vi của mình.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đã giữ nguyên quyết định truy tố và luận tội đối với bị cáo; phân tích nội dung vụ án, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã đề nghị với Hội đồng xét xử:
- Áp dụng: Điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật hình sư; Điều 2, Điều 5, Điều 6 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Xử phạt Bị cáo Hà Văn H 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo Hà Văn Hậu cho Ủy ban nhân dân xã Tân Minh, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù.
- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
- Về phần dân sự: Bị cáo và gia đình đã bồi thường cho bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, không có yêu cầu bồi thường nào khác, phần dân sự đã được giải quyết nên không đề cập.
- Về vật chứng: Những tài sản bị chiếm đoạt, thu hồi được đã trả lại cho bị hại theo đúng quy định của pháp luật, nên không đề cập.
Bị cáo không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và nói lời nói sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh, điều khoản áp dụng:
Căn cứ vào lời khai nhận tội của bị cáo Hà Văn Hậu trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với nội dung Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú, Kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Trong 02 ngày 20/5/2020 và 23/5/2020, mặc dù được sự tin tưởng của anh Hoàng Văn Trí cho ở nhờ, quản lý phòng trọ cùng các tài sản trong phòng trọ ở khu 4, phường Hải Hòa, thành phố Móng Cái, Hoàng Văn Hậu vẫn thực hiện hành vi lấy các tài sản trong phòng trọ gồm 01 chiếc tivi, 01 tủ lạnh nhãn hiệu Panasonic, 01 nồi cơm điện, 02 bình ga, 01 chiếc quạt, 01 máy bơm nước, có tổng trị giá tài sản theo Kết luận định giá là 6.450.000đ (sáu triệu bốn trăm năm mươi nghìn đồng), mang bán lấy tiền tiêu xài.
Tại Bản cáo trạng số 143/CT-VKS-MC, ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái và tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, xác định bị cáo phạm tội thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự với quan điểm bị cáo bán tài sản của bị hại là “sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp”.
Hội đồng xét xử thấy việc truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái đối với bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ. Tuy nhiên, xét việc bị cáo khi bán tài sản của bị hại không thông báo cho bị hại, lấy tiền tiêu xài cá nhân, không có ý định hoàn trả tài sản đã bán là chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản của bị hại. Sau khi bán tài sản, với ý thức chiếm đoạt tài sản của bị hại, bị cáo đã đi khỏi thành phố Móng Cái mà không thông báo cho bị hại, đồng thời thay đổi sim số liên lạc để bị hại không liên lạc được trong trường hợp bị hại phát hiện. Như vậy hành vi của bị cáo không thuộc trường hợp “sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự như nội dung Cáo trạng đã truy tố và nội dung luận tội của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, mà thuộc trường hợp “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản”quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự. Việc Tòa án xét xử bị cáo theo tội danh trong cùng một khoản nhưng khác điểm Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 298 Bộ luật tố tụng hình sự về giới hạn của việc xét xử.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất lòng tin trong quan hệ xã hội, gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân và góp phần làm xấu đi tình hình trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, lợi dụng sự tin tưởng của chủ sở hữu tài sản, giao tài sản cho bị cáo quản lý, bị cáo bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản trị giá 6.450.000đ, do đó hành vi phạm tội của bị cáo đã cầu thành tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự quy định:
"1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc ..., thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;”.
[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt bổ sung:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hà Văn Hậu không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên cần xem xét nhân thân của bị cáo đã từng bị khởi tố bị can năm 2015 nhưng đã được đình chỉ khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo Hà Văn Hậu, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tác động đến người thân trong gia đình khắc phục hậu quả; sau khi phạm tội đã ra đầu thú, do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, i, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
- Về hình phạt bổ sung: theo quy định tại khoản 5 Điều 175 Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo tuổi đời còn trẻ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[4] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, trị giá tài sản bị cáo đã chiếm đoạt, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải xử lý nghiêm trong khung hình phạt đã truy tố. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, khắc phục hậu quả; sau khi phạm tội đã ra đầu thú thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo là người dân tộc thiểu số, thuộc vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật hạn chế, có nơi cư trú rõ ràng, do đó không cần thiết buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại cơ sở giam giữ nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà tích cực cải tạo thành người lương thiện, công dân có ích cho xã hội.
[5] Về phần dân sự và xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra đã thu hồi được những tài sản bị cáo chiếm đoạt gồm 01 tủ lạnh nhãn hiệu Panasonic, 01 nồi cơm điện, 02 bình ga, cơ quan điều tra đã trả lại cho bị hại theo đúng quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử không đề cập.
Đối với những tài sản không thu hồi được, bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại 3.000.000đ (ba triệu đồng); bồi thường cho người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan 4.000.000đ (bốn triệu đồng); bị cáo, bị hại, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án không có yêu cầu gì khác, do đó phần dân sự trong vụ án đã được giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập.
[7] Liên quan trong vụ án còn có đối tượng tên Khánh và Nhất; 02 chiếc xe mô tô bị cáo mượn của Khánh và của Tuấn, nhưng quá trình điều tra đều không xác định được lai lịch địa chỉ của Nhất, Khánh và Tuấn nên không có căn cứ để xử lý.
Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người dân tộc thiểu số, thuộc vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo đề nghị được miễn án phí, do đó căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Bị cáo Hà Văn Hậu phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật hình sư; Điều 2, Điều 5, Điều 6 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP, ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
Xử phạt: Bị cáo Hà Văn H 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 12 (mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Hà Văn Hậu cho Ủy ban nhân dân xã Tân Minh, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án này.
Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đã áp dụng đối với bị cáo Hà Văn H theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 47/2020/HSST, ngày 09/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
*) Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm:
Căn cứ vào Quyết định 582/QĐ-TTg, ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 6 Điều 15 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Hà Văn Hậu được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm.
*) Về quyền kháng cáo:
Căn cứ vào khoản 1, khoản 4 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.
Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 143/2020/HS-ST
Số hiệu: | 143/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về