Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 110/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 110/2022/HS-PT NGÀY 25/03/2022 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25-3-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm công khai (trực tuyến) vụ án hình sự thụ lý số 101/2022/TLPT-HS ngày 24-02-2022 đối với bị cáo Hoàng D, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 19-01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

- Bị cáo kháng cáo:

Hoàng D (tên gọi khác: Cu nhỏ), sinh ngày 20-10-1975, tại Quảng Trị; noi đăng ký HKTT và chỗ ở: Nhà số 530 đường L, phường T (P cũ), thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 7/12; nghề nghiệp: Không; con ông Hoàng N (đã chết) và bà Trần Thị L1, sinh năm 1949; vợ là Trần Thị Ly S, sinh năm 1982 (không đăng ký kết hôn) và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt ngày 31-3-2021, hiện đang tạm giam tại trại Tạm giam Công an tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt tại phiên tòa.

Người tham gia tố tụng có liên quan đến kháng cáo:

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đặng Thị Ngọc H1 - Công ty Luật Ngọc H & Cộng sự, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế; địa chỉ: Nhà số 5 Kiệt 187, đường P1, phường P2, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Phan Gia L2, sinh năm 1984; địa chỉ cư trú: Nhà số 169 đường H2, phường Đ, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Luật sư Phan Minh B - Công ty Luật TNHH Đ1, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thừa Thiên Huế; địa chỉ: số 07 đường T1, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng thời gian từ tháng 3-2018 đến tháng 10-2018, do cần tiền để làm ăn kinh doanh, Hoàng D nhiều lần vay tiền của anh Phan Gia L2. Việc vay mượn tiền giữa D và anh L2 thực hiện như sau: D dùng các số điện thoại 0905.032.033 và số 0909.545.575 của mình gọi điện và nhắn tin đến số điện thoại 0905.367.575 của anh L2 để vay tiền. Do là bạn bè thân thiết, nên anh L2 dùng tiền của cá nhân tích góp được hoặc vay mượn tiền của bạn bè đưa cho Hoàng D vay. Ngày 07-11-2018 (tức ngày 01-10-2018 âm lịch), anh Phan Gia L2 và Hoàng D đã chốt nợ, theo đó D viết giấy vay tiền, với tổng số tiền là 1.300.000.000 đồng và cam kết trả nợ mỗi tháng 30.000.000 đồng và D đã trả được 30.000.000 đồng, sau đó không trả nữa. Đến giữa tháng 12-2018, do không có khả năng trả nợ, D bỏ trốn khỏi địa phương và ngày 31-3-2021, D bị bắt bị theo lệnh truy nã.

Tại Bản Kết luận giám định số 768/GĐ ngày 12-01-2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: 02 dấu đường vân dưới mục “Kể từ ngày 01/10/2018” ký hiệu A1, A2 so với đường vân trên chỉ bản ghi họ tên Hoàng D do cùng một người in ra và được in từ ngón cái phải và cái trái; 02 dấu đường vân dưới mục “Huế 1/10/2018” ký hiệu A3, A4 so với đường vân trên chỉ bản và 02 tờ khai ghi họ tên Hoàng D do cùng một người in ra và được in từ ngón trỏ phải và trỏ trái.

Tại Bản Kết luận giám định số 495/GĐ ngày 23-9-2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thừa Thiên Huế kết luận: Chữ viết mang tên Hoàng D trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết đứng tên Hoàng D trên các tài liệu mẫu ký hiệu M1, M2 do cùng một người viết ra.

Về trách nhiệm dân sự: Hoàng D đã tác động gia đình bồi thường cho bị hại 50.000.000 đồng (nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế theo Biên lai thu tiền số 0000005 ngày 01-12-2021). Anh Phan Gia L2 yêu cầu bị cáo trả lại 1.220.000.000 đồng (một tỷ hai trăm hai mươi triệu đồng).

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HSST ngày 19-01-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế:

Áp dụng khoản 4 Điều 175; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Hoàng D 08 (tám) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31 -5-2021.

Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các điều 584, 585 và 586 của Bộ luật Dân sự.

- Buộc Hoàng D phải trả lại cho anh Phan Gia L2 1.270.000.000 đồng (một tỷ hai trăm bảy mươi triệu đồng), được trừ vào số tiền 50.000.000 đồng đã nộp (theo Biên lai thu tiền số 0000005 ngày 01-12-2021) của Cục thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế. Hoàng D còn phải trả cho anh Phan Gia L2 1.220.000.000 đồng.

- Ngày 21-01-2022, Hoàng D kháng cáo xin giảm hình phạt.

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Sau khi xét xử sơ thẩm, Hoàng D kháng cáo bản án. Đơn kháng cáo của bị cáo là trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, do đó Hội đồng xét xử quyết định đua vụ án ra xét xử phúc thẩm. Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tại phần tranh luận, bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh mà Tòa án cấp sơ thẩm đã quyết định, nhưng cho rằng bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: sau khi phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại; gia đình có hoàn cảnh khó khăn, từ đó đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giảm hình phạt.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo:

[2.1]. Về tội danh:

Do cần có tiền để làm ăn kinh doanh, nên trong khoảng thời gian từ tháng 3-2018 đến tháng 10-2018, Hoàng D nhiều lần vay tiền của anh Phan Gia L2, với tổng số tiền là 1.300.000.000 đồng và cam kết trả nợ mỗi tháng 30.000.000 đồng (mỗi ngày 1.000.000 đồng). Tháng đầu, D thực hiện lời hứa và đã trả được 30.000.000 đồng. Đến giữa tháng 12-2018, D bỏ trốn khỏi địa phương để chiếm đoạt 1.270.000.000 đồng của anh L2.

Hành vi của Hoàng D là vay tài sản của người khác bàng hình thức hợp đồng rồi bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản. Với hành vi như đã nêu, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đứng pháp luật.

[2.2]. Về hình phạt:

Do tin tưởng là chỗ bạn bè thân quen, anh Phan Gia L2 đã cho Hoàng D vay 1.270.000.000 đồng, nhưng ngay sau đó bị cáo bỏ trốn để chiếm đoạt toàn bộ số tiền đã vay.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Trong thời gian ngắn, bị cáo chiếm đoạt của bị hại số tiền tương đối lớn, nên cần phải xử phạt bị cáo một hình phạt nghiêm khắc. Có như vậy, mới đủ tác dụng để cải tạo giáo dục đối với bị cáo, cũng như ngăn chặn và phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này.

Tuy nhiên, do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường thiệt hại và trước khi xét xử phúc thẩm gia đình bị cáo tự nguyện nộp thêm 20.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho bị hại; ngoài ra, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, mẹ già yếu, vợ không có việc làm và con còn nhỏ. Vì vậy, để thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, Hội đồng xét xử phúc thẩm sẽ áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để giảm hình phạt cho bị cáo.

Như vậy, kháng cáo của bị cáo đã được Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét và có cơ sở để chấp nhận.

[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử phúc thẩm không xem xét.

[4]. Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận, nên Hoàng D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng D.

- Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2022/HS-ST ngày 19-01-2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.

2. Về trách nhiệm hình sự:

Áp dụng khoản 4 Điều 175; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Hoàng D 05 (năm) năm tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 31-5-2021.

3. Về trách nhiệm dân sự:

Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; các điều 584,585 và 586 của Bộ luật Dân sự.

Tuyên trả cho anh Phan Gia L2 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) do gia đình bị cáo Hoàng D tự nguyện nộp, theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000036 ngày 25-3-2022 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thừa Thiên Huế.

4. Các quyết của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

5. Về án phí:

Căn cứ điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Bị cáo Hoàng D không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

1693
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản số 110/2022/HS-PT

Số hiệu:110/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;