Bản án 02/2024/HS-ST về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành - tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 03/2024/HSST, ngày 12 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Nhân M, sinh ngày 20/07/2005 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm E, xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Nhân T và bà Thái Thị N; vợ con: chưa có; tiền án, tiền sự: không; tạm giữ, tạm giam: không; bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Hoàng Công S, sinh ngày 13/10/2005 ( có mặt).

Nơi cư trú: xóm N, xã S, huyện Y.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lê Duy H ( có mặt).

Nơi cư trú: xóm B , xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 08 giờ ngày 07/01/2022, Nguyễn Nhân M và nguyễn Văn S1, sinh năm 2003 , trú tại: xóm D, xã B, huyện Y, tỉnh Nghệ An đi chơi ở xã B, huyện Y, vì lúc đó không có xe mô tô để đi, nên M và S1 đã đến cửa hàng sửa chữa xe mô tô “Lộc Nga” của anh Hoàng Công S, sinh năm 2005, trú tại xóm N, xã S, huyện Y ( cửa hàng sửa chữa xe ở xóm F, xã B, huyện Y ). Khi đến cửa hàng M gặp anh S và nói anh S cho mượn xe mô tô để đi cắt tóc. Vì M1 và anh S là bạn bè với nhau nên anh S đồng ý cho M mượn 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại AIRBLADEFI, màu đỏ đen trắng, BKS 37P1 - 082.xx, đây là chiếc xe mô tô của ông Hoàng Công T1, trú tại xóm C, xã S, huyện Y là chú ruột của anh S giao cho anh S đưa đi bảo dưỡng và sửa chữa. Sau khi mượn được xe, M1 điều khiển xe mô tô chở S1 đi chơi, trong lúc đi chơi, vì không có tiền tiêu xài, M đã nảy sinh ý định đi cầm cố chiếc xe mô tô nói trên. M nói với S1 về việc đưa xe đi cầm cố lấy tiền tiêu xài, khi nào có tiền thì chuộc lại trả cho anh S sau, S1 đồng ý. M điều khiển xe mô tô chở S1 đi xuống huyện D, tỉnh Nghệ An tìm nơi cầm cố chiếc xe. Khi đi đến cửa hàng sửa chữa xe mô tô “Hào T2” tại xóm C, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An do anh Lê Duy H, sinh năm 1987, trú tại: xóm B, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An làm chủ, M và S1 đưa chiếc xe mô tô nói trên vào cửa hàng anh H và hói anh H “anh coi xe ni cắm được mấy tiền”. Anh H nói cửa hàng không làm dịch vụ cầm đồ, nhưng nếu xe có giấy tờ và chính chủ thì anh hào mua. M nói chiếc xe mô tô là của M mua của chú ruột nhưng chưa làm thủ tục sang tên. Lúc này, anh H kiểm tra trong cốp xe thì thấy có 01 giấy đăng ký xe mô tô mang tên Hoàng Công T1, sinh năm 1976 ở xóm C, xã S, huyện Y, tỉnh Nghệ An. Do lúc đầu M giới thiệu tên là Hoàng Công M2 nên anh H tin là xe của M2. Anh H nói với M2 xe này nếu bán được 5.000.000 đồng, M2 quay sang nói với S là “Năm triệu có được không” S trả lời lại với M2 là “rứa cũng được”, nên M2 đã bán chiếc xe mô tô nói trên cho anh H với giá 5.000.000đ ( năm triệu đồng). Sau khi bán xe xong, M2 và S chia nhau mỗi người 2.500.000đ ( Hai triệu năm trăm nghìn đồng”, sau khi chia tiền xong M2 bắt xe khách đi Hà Nội bỏ trốn. Sau đó, anh Hoàng Công S có gọi điện thoại cho M2 để hỏi xe thì M2 nói xe đang bị Cảnh sát giao thông giữ ở huyện D, tỉnh Nghệ An. Đến ngày 11/01/2022, sau khi biết chiếc xe mô tô của mình bị Nguyễn Nhân M bán ở huyện D, tỉnh Nghệ An, anh S đã đến Công an xã B, huyện Y để trình báo vụ việc.

Đến ngày 16/11/2023, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nên Nguyễn Nhân M đã đến Công an huyện Y xin đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Đối với Nguyễn Văn S2 là người đã cùng Nguyễn Nhân M đi bán chiếc xe mô tô, Cơ quan cảnh sát điều tra đã tiến hành xác minh nhưng hiện tại Nguyễn Văn S2 không có mặt tại địa phương.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 01/KL - HĐ ĐGTS ngày 25/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân huyện Y kết luận “01 ( một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe AIRBLAEFI, màu đỏ - đen -trắng; số khung: DY-512350; số máy F46E- 4023595; Biển kiểm soát: 37P1 - 082.xx ( xe đã qua sử dụng, vẫn còn sử dụng được), thời điểm ngày 07/01/2022 có giá trị 13.500.000 đồng ( mười ba triệu năm trăm nghìn đồng)” Vật chứng thu giữ và xử lý vật chứng:

Ngày 12/01/2022 anh Lê Duy H đã tự nguyện giao nộp 01 ( một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe AIRBLAEFI, màu đỏ - đen - trắng; số khung: DY- 512350; số máy F46E- 4023595; Biển kiểm soát: 37P1 - 082.xx, xe đã qua sử dụng. Co quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã trả lại chiếc xe nói trên cho bị hại là anh Hoàng Công S.

Về phần dân sự: Bị hại anh Hoàng Công S đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì về phần dân sự. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Lê Duy H yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng.

Cáo trạng số 06/ CT-VKS-YT ngày 11/01/2024 của VKSND huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Nhân M về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 36, 90, 91, 98, 100 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Nhân M từ 09 tháng đến 12 tháng cải tạo không giam giữ. Không khấu trừ thu nhập thu nhập đối với bị cáo.

- Về dân sự: Áp dụng Điều 47, 48 của Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 586, 589 của Bộ luật Dân sự.

Buộc bị cáo phải trả cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Duy H là 5.000.000 đồng.

- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự, dân sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với Kiểm sát viên.

Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không tranh luận gì với Kiểm sát viên.

Bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Ngày 07/01/2022, Nguyễn Nhân M đã mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe AIRBLAEFI, màu đỏ - đen - trắng; số khung: DY-512350; số máy F46E- 4023595; Biển kiểm soát: 37P1 - 082.xx của anh Hoàng Công S để đi chơi. Trên đường đi chơi, không có tiền nên M đã bán xe mô tô lấy tiền tiêu xài cá nhân. Xe có giá trị 13.500.000 đồng.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng có đủ cơ sở xác định bị cáo đã mượn tài sản sau đó chiếm đoạt tài sản của bị hại, giá trị 13.500.000 đồng.

Do đó, bị cáo đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự.

Bị cáo lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giá trị 13.500.000 đồng nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội không lớn. Bị cáo lợi dụng quen biết, mượn tài sản của người khác để chiếm đoạt tài sản, bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn nên phải xử lý nghiêm đối với bị cáo. Tuy nhiên bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, đầu thú, bị hại xin giảm hình phạt cho bị cáo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Vì vậy khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, 101, 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt hình phạt tù với mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhằm giáo dục, giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Bị cáo có nhân thân tốt, nhiều tình tiết giảm nhẹ và có nơi cư trú rõ ràng xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, cho bị báo hưởng án treo.

Hình phạt bổ sung: Tại thời điểm phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu bị cáo trả 5.000.000 đồng tiền mua xe máy do phạm tội mà có. Tại phiên tòa bị cáo nhất trí trả cho 5.000.000 đồng cho anh Lê Duy H nên Hội đồng xét xử chấp nhận, buộc bị cáo có nghĩa vụ trả cho anh Lê Duy H 5.000.000 đồng.

Đối với anh Lê Duy H: đã mua chiếc xe mô tô do Nguyễn Nhân M bán anh H không biết nguồn gốc của chiếc xe nên không phải chịu trách nhiệm hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Đồi với Nguyễn Văn S2: đã cùng M đi bán chiếc xe mô tô do M mượn. Quá trình điều tra Nguyễn Văn S2 không có mặt tại địa phương nên chưa có căn cứ để xử lý đối với S.

[5] Về vật chứng: Anh Lê Duy H đã tự nguyện giao nộp 01 ( một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA, loại xe AIRBLAEFI, màu đỏ - đen - trắng; số khung: DY-512350; số máy F46E- 4023595; Biển kiểm soát: 37P1 - 082.xx (đã qua sử dụng). Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả lại chiếc xe cho bị hại là có căn cứ, đúng pháp luật.

[6] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của của Cơ quan và người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 175; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91; khoản 1 Điều 101; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Nhân M 09 ( C ) tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao Nguyễn Nhân M cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện Y, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp M thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách M cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc M phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

- Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, 585, 588, 123 của Bộ luật Dân sự.

Chấp nhận yêu cầu của anh Lê Duy H.

Buộc Nguyễn Nhân M có nghĩa vụ trả cho anh Lê Duy H số tiền 5.000.000đ (Năm triệu đồng) bán xe máy.

- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc Nguyễn Nhân M phải nộp 200.000đ ( Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ ( Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

- Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ hên quan có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Thi hành án và nghĩa vụ chậm thi hành án:

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án ( đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2024/HS-ST về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;