Bản án 64/2023/HS-ST về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 64/2023/HS-ST NGÀY 25/08/2023 VỀ TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 8 năm 2023. Tại: Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An.

Xét xử sở thẩm công khai, vụ án hình sự thụ lý số: 49/2023/HSST, ngày 14 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2023/QĐXXST-HS, ngày 26/7/2023, đối với:

1. Bị cáo: Hoàng Xuân Th, sinh ngày 09/11/1970. Nơi cư trú: Xóm Long Sơn, xã TL, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Nghề nghiệp trước khi phạm tội: Công chức địa chính xã NS; trình độ học vấn: Đ học; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; con ông: Hoàng Đình Đ, sinh năm 1933 và bà Trần Thị H, sinh năm 1945; vợ: Trần Thị L, sinh năm 1972; con: Có 02 con, lớn sinh năm 1995, nhỏ sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/12/2022 cho đến nay, có mặt tại phiên toà.

2. Người bị hại:

2.1. Ông Nguyễn CH, sinh năm 1959. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.2. Ông Nguyễn TĐ, sinh năm 1966. Địa chỉ: Xóm Lam Hồng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.3. Ông Phạm BD, sinh năm 1968. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.4. Ông Lê CĐ, sinh năm 1958. Địa chỉ: Xóm Nam Phong, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.5. Ông Đặng VC, sinh năm 1950. Địa chỉ: Xóm Nam Thượng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.6. Ông Nguyễn VV, sinh năm 1977. Địa chỉ: Xóm Thạch Sơn, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.7. Ông Hoàng VV, sinh năm 1966. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.8. Anh Lê QH, sinh năm 1980. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.9. Bà Lê TS, sinh năm 1958. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.10. Bà Nguyễn TQ, sinh năm 1970. Địa chỉ: Xóm Thạch Sơn, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.11. Bà Nguyễn TT, sinh năm 1969. Địa chỉ: Xóm Thạch Sơn, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.12. Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1965. Địa chỉ: Xóm Lam Hồng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.13. Ông Nguyễn Viết T, sinh năm 1962. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.14. Chị Nguyễn Thị G, sinh năm 1980. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.15. Ông Đặng Thanh B, sinh năm 1966. Địa chỉ: Xóm Nguyệt Bồng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.16. Ông Nguyễn Phùng S, sinh năm 1973. Địa chỉ: Xóm Yên Đình, xã Thanh Ngọc, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.17. Ông Hồ Ngọc S, sinh năm 1970. Địa chỉ: Xóm Nam Thượng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.18. Ông Lê Văn H, sinh năm 1956. Địa chỉ: Xóm Nam Thượng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.19. Ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1966. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.20. Chị Nguyễn Thị O, sinh năm 1992. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.21. Anh Cao Doãn Kh, sinh năm 1990. Địa chỉ: Xóm Nguyệt Bồng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.22. Ông Phạm Ngọc H sinh năm 1958. Địa chỉ: Xóm Lam Hồng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.23. Ông Lê Xuân K, sinh năm 1970. Địa chỉ: Xóm Lam Hồng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

2.24. Ông Cao Xuân T, sinh năm 1964. Địa chỉ: Xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Thanh Ngh, sinh năm 1950. Địa chỉ: Xóm Nguyệt Bồng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm như sau: Hoàng Xuân Th là công chức địa chính xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An theo Quyết định về việc thuyên chuyển công tác đối với công chức cấp xã số 3582/QĐ-UBND ngày 05/10/2018 của UBND huyện Thanh Chương. Quá trình công tác tại UBND xã NS, huyện Thanh Chương, lợi dụng lòng tin của nhân dân vào vai trò là cán bộ địa chính UBND xã, Th đã nhận tiền của các hộ dân trên địa bàn xã NS để hứa hẹn làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền, Th không làm các thủ tục, không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho người dân như đã hứa mà đã sử dụng số tiền nhận được để sử dụng vào mục đích cá nhân. Từ năm 2018 đến năm 2022, Hoàng Xuân Th đã nhận tiền của 25 người dân trên địa bàn xã NS, huyện Thanh Chương với tổng số tiền chiếm đoạt là 283.148.284 đồng (Hai trăm tám mươi ba triệu một trăm bốn mươi tám nghìn hai trăm tám mươi tư đồng). Cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng tháng 10/2018, ông Nguyễn CH (sinh năm 1959, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 131, tờ bản đồ số 11, bản đồ địa chính xã NS với diện tích là 3082 m2 nên đã đến UBND xã NS nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý và ông Hương đã đưa cho Th số tiền 20.000.000 đồng để làm hồ sơ. Sau khi nhận tiền và hồ sơ từ ông Hương, Th không làm bất cứ thủ tục gì đối với hồ sơ này và số tiền 20.000.000 đồng nhận từ ông Hương, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 19.266.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Nguyễn CH không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ hai: Khoảng tháng 01/2019, ông Nguyễn TĐ (sinh năm 1966, trú tại xóm Lam Hồng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất đối với thửa đất số 1411, tờ bản đồ số 16, diện tích 2681m2, địa chỉ tại xóm Lam Hồng, xã NS cho em trai nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 40.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Th đã dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về đo đạc và sử dụng số tiền 1.056.600 đồng để thanh toán, lấy kết quả đo đạc, đồng thời sử dụng số tiền 509.390 đồng để nộp tiền thuế. Ngày 15/11/2019, UBND huyện Thanh Chương đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CR878186 đối với thửa đất số 1411. Ngày 16/11/2019, Th tiếp tục dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về đo đạc để làm thủ tục tách thửa, chuyển mục đích sử dụng đất và dùng số tiền 690.000 đồng để lấy kết quả đo đạc. Sau khi có kết quả đo đạc, Th không làm bất cứ thủ tục gì khác nữa. Số tiền còn lại là 37.500.000 đồng, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 37.500.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Nguyễn TĐ không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ ba: Đầu năm 2019, anh Phạm BD (sinh năm 1968, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) có nhu cầu làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức cấp mới đối với thửa đất số 89, tờ bản đồ địa chính số 19, diện tích 3076m2, địa chỉ tại xóm Lam Thắng, xã NS nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 30.000.000 đồng và hứa 2 đến 3 tháng sẽ có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Anh D và Th thống nhất đưa trước 20.000.000 đồng còn lại 10.000.000 đồng sé đưa tiếp sau khi có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Số tiền 20.000.000 đồng này được anh D giao cho Th 02 lần tại UBND xã NS. Sau khi nhận tiền, anh D liên hệ thúc dục nên đến tháng 8/2021, Th đã dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về đo đạc. Sau khi nhận được kết quả đo đạc, Th đã soạn thảo một số tài liệu rồi gọi anh D đến để ký tên rồi không làm thêm bất cứ thủ tục gì khác đối với hồ sơ này. Số tiền 20.000.000 đồng nhận từ anh D, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 20.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, anh Phạm BD không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ tư: Khoảng tháng 6/2019, ông Lê CĐ (sinh năm 1958, trú tại xóm Nam Phong, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức tặng cho quyền sử dụng đất, chuyển mục đích sử dụng đối với thửa đất là thửa số 1079, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (nay là thửa 747, tờ bản đồ số 31, diện tích 442m2) và theo hình thức tặng, cho đối với thửa đất số 788, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (nay là thửa 565, tờ bản đồ số 31, diện tích 1995m2, đều tại xóm Nam Phong, xã NS) nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 20.000.000 đồng Ngày 15/06/2019 (Âm lịch), ông Đào đến UBND xã NS đưa tiền cho Th nên sau đó, Th đã dẫn cán bộ về đo đạc thửa đất này đồng thời soạn thảo tài liệu để làm hồ sơ cho ông Đào. Đến tháng 12/2022, ông Đào biết Th chuẩn bị chuyển công tác nên đã liên hệ Th để đòi lại tiền thì Th đã sử dụng một Giấy tiếp nhận hồ sơ và hẹn trả kết quả giả gửi cho ông Đào. Sau khi biết bị lừa, ông Đào đã viết đơn tố cáo đến UBND xã NS và liên hệ với Th để đòi lại tiền thì đến ngày 15/12/2022, Th đã trả lại số tiền 20.000.000 đồng cho ông Đào. Hiện, bị hại không có yêu cầu gì thêm.

Vụ thứ năm: Tháng 7/2019, ông Đặng VC (sinh năm 1950, trú tại xóm Nam Thượng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 98, tờ bản đồ 30, diện tích 1363m2 nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 5.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền và một số tài liệu liên quan đến thửa đất, Th chỉ tiến hành làm một số tài liệu và tiêu xài cá nhân hết số tiền nhận của ông Cường.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 5.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Đặng VC không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ sáu: Tháng 10/2019, anh Nguyễn VV (sinh năm 1977, trú tại xóm Thạch Sơn, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục tặng đối với thửa đất số 725, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299, diện tích 400m2, địa chỉ tại xóm Thạch Sơn, xã NS nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 5.100.000 đồng. Theo yêu cầu của Th, anh Vỹ đã yêu cầu đưa trước số tiền 3.000.000 đồng cùng một số tài liệu có liên quan. Sau khi nhận tiền, Th không tiến hành làm bất cứ thủ tục gì nên anh Vỹ yêu cầu Th trả lại các tài liệu mà anh đã nộp cho Th còn số tiền 3.000.000 đồng nhận của anh Vỹ, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 3.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, anh Nguyễn VV không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ bảy: Vào năm 2006, ông Hoàng VV (sinh năm 1966, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) nhận chuyển nhượng từ ông Phạm Bá Minh (sinh năm 1968, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An) thửa đất số 269, tờ bản đồ số 2, diện tích 4536 m2, tại xóm Lam Thắng, xã NS. Đến khoảng tháng 6/2018, UBND xã NS và ông Việt thỏa thuận đổi thửa đất số 269 để xây dựng nhà văn hóa xóm Lam Thắng và cấp một thửa đất khác cho ông Việt.

Cuối năm 2019, ông Việt có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất được đổi này nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 30.000.000 đồng. Ông Việt đồng ý nên giao số tiền 30.000.000 đồng tại Th. Sau khi nhận tiền, Th đã dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai về để đo đạc, tuy nhiên quá trình đo phát hiện hiện trạng thửa đất tăng lên nhiều so với bản đồ địa chính nên không thể cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Lúc này, do không có nhu cầu làm nhà văn hóa nữa nên UBND xã NS đã trả lại thửa đất số 269 cho ông Việt. Sau khi nhận lại đất, ông Việt tiếp tục nhờ Th làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mình thì Th đồng ý. Sau đó, Th đã dẫn cán bộ về đo đạc, ngoài ra không làm bất cứ thủ tục gì khác. Số tiền 30.000.000 đồng đã nhận từ ông Việt, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 30.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Hoàng VV không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ tám: Khoảng tháng 10/2019, anh Lê QH (sinh năm 1980, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục tặng, cho đối với thửa đất số 110, tờ bản đồ số 19, diện tích 1047m2 tại xóm Lam Thắng, xã NS nên đến UBND xã NS nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 30.000.000 đồng. Sau đó, Th dẫn người về đo đạc cho anh Huy rồi yêu cầu anh Huy giao số tiền 2.000.000 đồng để lấy kết quả đo đạc. Ngày 30/05/2022, Th đã đến Bộ phận một cửa UBND huyện Thanh Chương và sử dụng số tiền 2.327.661 đồng để lấy kết quả đo đạc. Sau khi có kết quả đo đạc, Th không làm thủ tục gì khác nên anh Huy nhiều lần liên hệ thúc dục và giao thêm cho Th số tiền 7.000.000 đồng để làm hồ sơ. Sau khi nhận tiền từ anh Huy, Th không làm được thủ tục gì nữa. Hiện tại số tiền còn lại là 6.672.339 đồng, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 6.700.000 đồng cho bị hại. Bị hại, anh Lê QH không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ chín: Năm 2020, bà Lê TS (sinh năm 1958, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho con gái nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý. Sau đó, Th dẫn cán bộ Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về đo đạc và thông báo cho bà Sen chi phí để làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất là 36.000.000 đồng, trong đó giao trước số tiền 20.000.000 đồng, số tiền còn lại sẽ thanh toán khi nhận dược Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Bà Sen đồng ý nên đến UBND xã NS đưa cho Th số tiền 20.000.000 đồng. Ngày 02/07/2019, Th đã sử dụng số tiền 734.000 đồng để thanh toán và nhận kết quả đo đạc. Sau đó, nhận được thông báo thửa đất này chưa thể làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Th vẫn không trả lại số tiền trên cho bà Sen mà sử dụng số tiền còn lại là 19.266.000 đồng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 19.266.000 đồng cho bị hại. Bị hại, bà Lê TS không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười: Năm 2020, chị Nguyễn TQ (sinh năm 1970, trú tại xóm Thạch Sơn, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục thừa kế quyền đối với hai thửa đất số 214, 291 tờ bản đồ số 4, bản đồ 299, địa chỉ tại xóm Thạch Sơn, xã NS nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý và chị Quế đã đưa cho Th 2.000.000 đồng tiền công làm hồ sơ. Sau khi nhận tiền, Th không làm bất cứ thủ tục gì đối với hồ sơ này, và số tiền 2.000.000 đồng nhận của chị Quế, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 2.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, chị Nguyễn TQ không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười một: Năm 2020, bà Nguyễn TT (sinh năm 1969, trú tại xóm Thạch Sơn, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 162, tờ bản đồ số 4, diện tích 300m2, địa chỉ tại xóm Thạch Sơn, xã NS nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 20.000.000 đồng. Ngày 01/04/2020, Th đến nhà của bà Tạo thì bà Tạo đã đưa trước cho Th số tiền 15.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Hoàng Xuân Th đã dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về đo đạc. Quá trình đo đạc, kiểm tra phát hiện thấy thửa đất của bà Tạo đang có tranh chấp nên chưa thể làm được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Th vẫn không trả lại số tiền trên cho bà Tạo mà đã sử dụng hết vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 15.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, bà Nguyễn TT không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười hai: Khoảng tháng 7/2020, ông Nguyễn Văn T (sinh năm 1965, trú tại xóm Lam Hồng, xã NS) có nhu cầu làm thủ tục đăng ký biến động đối với thửa đất số 51, tờ bản đồ địa chính số 3, diện tích 1500m2, địa chỉ tại xóm Lam Hồng, xã NS từ tên chủ sử dụng đất là vợ chồng thành tên của ông Tình nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 7.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, ông Tình nhiều lần hối thúc không được nên đã đến gặp Th để rút hồ sơ và tự mình đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương làm. Sau đó, ông Tình nhiều lần liên hệ Th yêu cầu trả lại tiền nhưng Th không trả nên ông Tình đã yêu cầu Th làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 166, tờ bản đồ số 3, địa chỉ tại xóm Lam Hồng, xã NS thì được Th đồng ý. Tuy nhiên, sau đó Th vẫn khongg làm bất cứ thủ tục gì liên quan đến thửa đất và số tiền 7.000.000 đồng nhận từ ông Tình, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 7.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Nguyễn Văn T không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười ba: Khoảng tháng 8/2020, ông Nguyễn Viết T (sinh năm 1962, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS, huyện Thanh Chương) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 617, tờ bản đồ số 19, diện tích 3227 m2 tại xóm Lam Thắng, xã NS nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 10.000.000 đồng và hứa trong vòng 01 tháng 15 ngày sẽ Giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Ngày 25/08/2020 (âm lịch), Th đã gặp ông Tình tại xã TL và yêu cầu ông Tình đưa số tiền 10.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Th đã dẫn cán bộ về đo đạc, rồi soạn thảo một số thủ tục yêu cầu ông Tình đến để ký tên ngoài ra không làm bất cứ thủ tục nào khác. Số tiền 10.000.000 đồng Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 10.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Nguyễn Viết T không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười bốn: Ngày 18/10/2020, chị Nguyễn Thị G (sinh năm 1980, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức thừa kế quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 526, tờ bản đồ địa chính số 19, diện tích 2531m2, địa chỉ tại xóm Lam Thắng, xã NS nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 10.000.000 đồng và hẹn đến ngày 30/11/2020 sẽ giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi nhận tiền, Hoàng Xuân Th dẫn người về đo đạc và soạn thảo một số thủ tục rồi yêu cầu gia đình chị Giang đến ký tên, ngoài ra Hoàng Xuân Th không làm bất cứ thủ tục gì khác. Số tiền 10.000.000 đồng, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 10.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, chị Nguyễn Thị G không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mươi lăm: Tháng 8/2020, ông Đặng Thanh B (sinh năm 1966, trú tại xóm Nguyệt Bổng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục tặng cho đối với thửa đất số 583, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299, địa chỉ tại xóm Nguyệt Bổng, xã NS (nay là thửa 563, tờ bản đồ số 24) nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý. Sau đó, Th đến nhà ông Bình yêu cầu ông Bình cung cấp một số tài liệu liên quan đến thửa đất và đưa số tiền 3.500.000 đồng để làm hồ sơ. Sau khi nhận tiền, Th đã soạn thảo một số thủ tục có liên quan ngoài ra không làm thêm gì khác còn số tiền 3.500.000 đồng nhận từ ông Đặg Thanh Bình, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 3.500.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Đặng Thanh B không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười sáu: Năm 2020, anh Nguyễn Phùng S (sinh năm 1973, trú tại xóm Yên Đình, xã Thanh Ngọc, huyện Thanh Chương) có nhu cầu làm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục thừa kế đối với thửa đất số số 239, tờ bản đồ số 3 (nay là thửa 1169, tờ bản đồ số 23, diện tích 643m2, địa chỉ tại xóm Nam Thượng, xã NS) nên đến UBND xã NS nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý Sau đó, Th yêu cầu anh S đưa số tiền 2.000.000 đồng để làm hồ sơ. Sau khi nhận tiền, Th đã soạn thảo các tài liệu và nộp hồ sơ đến Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương nhưng sai sót nên bị trả lại. Sau khi bị trả hồ sơ, Th không làm bất cứ thủ tục gì khác còn số tiền 2.000.000 đồng nhận từ anh S, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 2.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, anh Nguyễn Phùng S không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười bảy: Đầu năm 2021, anh Hồ Ngọc S (sinh năm 1970, trú tại xóm Nam Thượng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục tặng, cho với thửa đất số 1299, tờ bản đồ số 22, diện tích 605m2, tại xóm Nam Thượng, xã NS nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý. Sau khi nhận hồ sơ của anh Sơn, Th dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về để đo đạc thửa đất này và đến nhà anh Sơn yêu cầu đưa số tiền 4.800.000 đồng để làm hồ sơ. Số tiền này, Th đã sử dụng 1.006.404 đồng để lấy kết quả đo đạc và từ đó đến nay, Th không làm bất cứ thủ tục gì khác và chiếm đoạt số tiền còn lại là 3.793.596 đồng.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 3.800.000 đồng cho bị hại. Bị hại, anh Hồ Ngọc S không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười tám: Khoảng tháng 6/2021, ông Lê Văn H (sinh năm 1956, trú tại xóm Nam Thượng, xã NS) có nhu cầu làm thủ tục đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 1587, tờ bản đồ địa chính số 30, diện tích 1957m2, địa chỉ tại xóm Nguyệt Bổng, xã NS nên nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý. Sau khi thống nhất, ông Hiến đến UBND xã NS đưa cho Th số tiền 5.000.000 đồng để làm hồ sơ. Tháng 7/2021, Th dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về đo đạc thửa đất này. Đến khoảng tháng 11/2021, Th tiếp tục yêu cầu ông H giao số tiền 1.300.000 đồng để lấy kết quả đo đạc và sau đó, Th sử dụng số tiền 1.321.257 đồng để lấy kết quả đo đạc. Quá trình tiếp nhận hồ sơ của ông Hiến, Th mới chỉ soạn thảo một số tài liệu ngoài ra không làm bất cứ thủ tục gì khác còn số tiền 4.978.743 đồng còn lại đã nhận của ông Hiến, Th đã chiếm đoạt và sử dụng hết vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 5.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Lê Văn H không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ mười chín: Tháng 8/2021, ông Nguyễn Văn S (sinh năm 1966, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức cấp mới đối với thửa đất có diện tích 1500m2 tại xóm Lam Thắng, xã NS nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 40.000.000 đồng.

Ngày 06/08/2021, ông S mang số tiền 20.000.000 đồng đến UBND xã NS giao trước cho Th và hứa sẽ giao số tiền 20.000.000 đồng còn lại khi nhận được Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi nhận tiền, Th không làm bất cứ thủ tục liên quan đến thửa đất của ông S. Đến khoảng tháng 7/2022, biết thửa đất của ông S không đủ điều kiện để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng Th vẫn không trả lại tiền mà sử dụng số tiền 20.000.000 đồng nhận của ông S vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 20.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Nguyễn Văn S không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ hai mươi: Ngày 27/9/2021, chị Nguyễn Thị O (sinh năm 1992, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức cho, tặng đối với thửa đất số 651, tờ bản đồ số 1, bản đồ 299 diện tích 2318 m2 nên đã đến UBND xã NS nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 14.000.000 đồng và hẹn đến ngày 30/12/2021 sẽ giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau đó, chị O đã giao số tiền 6.000.000 đồng cho Th còn số tiền còn lại sẽ giao khi nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi nhận tiền, Th không làm bất cứ thủ tục gì liên quan đến thửa đất của chị O nên đến khoảng tháng 11/2022, chị O đến UBND xã NS để gặp Th để hỏi về tiến độ làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thì Th thông báo hồ sơ thiếu chữ ký của chủ sử dụng đất cũ nên không thể làm được. Số tiền 6.000.000 đồng nhận từ chị O, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 6.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, chị Nguyễn Thị O không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ hai mươi mốt: Khoảng tháng 12/2021, anh Cao Doãn Kh (sinh năm 1990, trú tại xóm Nguyệt Bổng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục tặng, cho với thửa đất số 326, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299 (nay là thửa 415, tờ bản đồ số 30, diện tích 730m2) tại xóm Nguyệt Bổng, xã NS, huyện Thanh Chương nên đến UBND xã NS nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý Ngày 22/12/2021, Th đã dẫn cán bộ của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện Thanh Chương về đo đạc đối với thửa đất này. Đến khoảng tháng 4/2022, Th yêu cầu anh Khiêm đưa số tiền 1.500.000 đồng tiền để lấy kết quả đo đạc và Th đã sử dụng số tiền 1.006.404 đồng để lấy kết quả đo đạc. Sau đó, tại UBND xã NS, Th đã yêu cầu anh Khiêm cung cấp hồ sơ để Hoàng Xuân Th làm giúp hồ sơ nên anh Khiêm giao cho Th số tiền 3.000.000 đồng. Khoảng 2 tháng sau, không thấy Th làm bất cứ thủ tục gì thêm nên anh Khiêm tiếp tục hẹn Th gặp mặt tại chợ Thanh Nam, xóm Nguyệt Bổng, xã NS và đưa tiếp cho Th số tiền 2.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi nhận tiền từ anh Khiêm, Th chỉ mới soạn thảo được một số tài liệu bỏ vào hồ sơ mà chưa làm được thủ tục gì và số tiền còn lại là 5.493.596 đồng Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 5.493.596 đồng cho bị hại. Bị hại, anh Cao Doãn Kh không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ hai mươi hai: Ngày 04/04/2022, ông Phạm Ngọc H (sinh năm 1958, trú tại xóm Lam Hồng, xã NS) có nhu cầu làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục tặng, cho đối với thửa đất số số 833, tờ bản đồ số 3 (nay là thửa 131, tờ bản đồ địa chính số 16, diện tích 863m2) nên đến UBND xã NS nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý với chi phí 5.000.000 đồng. Sau đó, ông Huỳnh đến UBND xã NS đưa cho Th số tiền 3.700.000 đồng. Sau khi nhận tiền Th đã soạn thảo một số thủ tục ngoài ra không làm thủ tục gì khác còn số tiền 3.700.000 đồng, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 3.700.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Phạm Ngọc H không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ hai mươi ba: Tháng 8/2022, anh Lê Xuân K (sinh năm 1970, trú tại xóm Lam Hồng, xã NS) có nhu cầu cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hình thức cấp mới đối với thửa đất có diện tích 3964m2 tại xóm Lam Hồng, xã NS nên đã nhờ Hoàng Xuân Th làm thủ tục thì được Th đồng ý làm với chi phí 15.000.000 đồng. Khi nhận tiền, Th đã viết vào một tờ giấy thể hiện nội dung Th nhận số tiền 15.000.000 đồng của anh Kiệm để nạp tiền thuế làm hồ sơ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau nhiều lần anh Kiệm thúc dục nên ngày 16/12/2022, Th đã dẫn người về đo đạc thửa đất của anh Kiệm và sau đó không làm thêm bất cứ thủ tục gì và đã sử dụng số tiền 15.000.000 đồng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 15.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, anh Lê Xuân K không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Vụ thứ hai mươi tư: Tháng 9/2022, ông Cao Xuân T (sinh năm 1964, trú tại xóm Lam Thắng, xã NS) gửi đơn đến UBND xã NS đề nghị làm Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo thủ tục chuyển nhượng đối với thửa đất số 1278, tờ bản đồ số 1, diện tích 36.983m2 nên Hoàng Xuân Th đã dẫn cán bộ đo đạc về đo. Trong quá trình đo đạc, ông T nhờ Th làm hồ sơ nên Th đồng ý với chi phí là 10.000.000 đồng. Ngày 18/09/2022, Th yêu cầu ông T đến UBND xã NS đưa số tiền 10.000.000 đồng giao cho Th. Sau khi nhận tiền, Th kiểm tra lại thửa đất của ông T thì phát hiện đất đang có tranh chấp nên chưa thể làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau một thời gian không thấy Th làm thủ tục gì nên ngày 16/12/2022, ông T đến UBND xã NS để gặp Th, tại đây Th đã trả lại hồ sơ cho ông T còn số tiền 10.000.000 đồng nhận từ ông T, Th đã sử dụng vào mục đích cá nhân.

Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 10.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Cao Xuân T không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngoài ra trong quá trình điều tra còn chứng minh được: Khoảng tháng 12/2021, do có nhu cầu làm thủ tục tách thửa, thừa kế một phận đối với thửa đất số 582, tờ bản đồ số 4, bản đồ 299, diện tích 1584m2 nên ông Lê Thanh Ngh nhờ Hoàng Xuân Th thì được Th đồng ý. Ngày 24/01/2022, Th dẫn cán bộ đo đạc về đo thửa đất này cho ông Nghị, sau khi lấy được kết quả đo ông Nghị đã giao lại cho Th đồng thời đưa cho Th số tiền 1.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, Th chưa làm bất cứ thủ tục gì đối với hồ sơ của ông Lê Thanh Ngh. Hiện nay, gia đình Hoàng Xuân Th đã khắc phục hậu quả, trả lại số tiền 1.000.000 đồng cho bị hại. Bị hại, ông Lê Thanh Ngh không có yêu cầu gì thêm và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 23/12/2022, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nên Hoàng Xuân Th đã đến Cơ quan điều tra đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Người bị hại trình bày ý kiến: Trong quá trình điều tra 24 người bị hại đã trình bày nội dung như trên, 24 người bị hại đã nhận lại đầy đủ số tiền bị chiếm đoạt, nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm, xin giảm nhẹ cho bị cáo.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh Ngh trình bày ý kiến: Trong quá trình điều tra, người cói quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã trình bày nội dung như trên và đã nhận lại đầy đủ số tiền bị chiếm đoạt, nên không có yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại bản Cáo trạng số 61 ngày 12/7/2023 Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đã truy tố Hoàng Xuân Th, về tội: "Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản ", theo điểm c, d khoản 2 Điều 355 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c, d khoản 2 Điều 355; điểm b, s, v khoản 1, 2 Điều 51; 54 Bộ luật hình sự. Áp dụng Điều 106; 136 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt Hoàng Xuân Th, từ 03 năm đến 03 năm, 06 tháng tù; bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Chương, điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo Hoàng Xuân Th, đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản tiếp nhận người ra đầu thú; phù hợp với lời khai của những người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; phù hợp với lời khai của người làm chứng; phù hợp với vật chứng đã thu được.

Xét về chứng cứ đã có đủ cơ sở để kết luận:

Từ tháng 10/2018 đến tháng 9/2022, với chức vụ là cán bộ địa chính xã NS, huyện Thanh Chương, với mục đích để chiếm đoạt tiền của những người có nhu cầu làm thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên địa bàn xã NS, huyện Thanh Chương, Hoàng Xuân Th đã có hành vi nhận tiền trái quy định của pháp luật của 25 người dân với tổng số tiền chiếm đoạt là 283.148.284 đồng (Hai trăm tám mươi ba triệu một trăm bốn mươi tám nghìn hai trăm tám mươi tư đồng).

Như vậy đã có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Hoàng Xuân Th, phạm tội "Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản ”, như Viện kiểm sát đã truy tố là đúng.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm, ảnh hưởng đến an ninh trật xã hôị; hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ; làm ảnh hưởng đến các cơ quan nhà nước khi thực thi nhiệm vụ quyền hạn được giao, xâm phạm sự hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước; bị cáo đã lợi dụng nhiệm vụ được giao để chiếm đoạt tài sản của công dân. Cho nên cần xét xử nghiêm, mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung và cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo.

Tuy nhiên xét thấy quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình; bị cáo đã tác động đến gia đình và đã bồi thường đầy đủ, toàn bộ số tiền đã chiếm đoạt cho người bị hại; toàn bộ người bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; ngày 14/4/1994 bị cáo đã có công cứu 03 khỏi đuối nước đã được UBND xã TL xác nhận; sau khi phạm tội đã đầu thú; ông nội bị cáo là liệt sĩ, bố mẹ bị cáo là người có công đã được tặng thưởng Huy chương kháng chiến. Các tình tiết này được quy định tại điểm b, s, v khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Cho nên cũng cần xem xét giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo, để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật. Xét thấy bị cáo có nhiều tình giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự,; bị cáo đã bồi thường, khắc phụ toàn bộ thiệt hại; cho nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định.

[4] Về trách nhiệm dân sự:

Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì;

nên Tòa án không xem xét.

[5] Về vật chứng:

Trong quá trình điều tra đã thu giữ 60 bộ hồ sơ liên quan đến việc đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của 64 hộ dân và 01 (một) bộ máy tính để bàn nhãn hiệu ACER (Qua khám xét khẩn cấp). 01 (một) máy tính xách tay, nhãn hiệu ASUS, màu đen.

Quá trình điều tra, Cơ quan điều trả đã trả lại cho chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền có liên quan đối với 55/64 bộ hồ sơ liên quan đến việc đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Trả lại 01 (một) máy tính xách tay, nhãn hiệu ASUS, màu đen cho bà Trần Thị L (vợ Th); Trả lại 01 (một) bộ máy tính để bàn gồm 01 màn hình và 01 CPU nhãn hiệu ACER cho UBND xã NS.

Còn lại 09 bộ hồ sơ, những người có liên quan từ chối nhận lại; xét thấy các tài liệu này đều là bản phô tô và bản sao, liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, đã được lưu vào hồ sơ vụ án, nên không cần thiết phải trả lại cho những người liên quan.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm c, d Khoản 2 Điều 355; điểm b, s, v khoản 1, 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật hình sự. Điều 106; 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, xử:

1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Xuân Th, phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.

2. Xử phạt bị cáo: Hoàng Xuân Th, 03 (Ba) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 23/12/2022.

3. Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét.

4. Về án phí: Bị cáo Hoàng Xuân Th, phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo, có quyền kháng cáo lên Toà án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 64/2023/HS-ST về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:64/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;