Bản án về tội khai báo gian dối số 17/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐS, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 22/06/2022 VỀ TỘI KHAI BÁO GIAN DỐI

Ngày 22 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện ĐS, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 08/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 03 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 04 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2022/HSST-QĐ ngày 13 tháng 05 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/HSST-QĐ ngày 26 tháng 05 năm 2022 đối với bị cáo:

Trịnh Ngọc A; sinh ngày 03 tháng 03 năm 1991; tại huyện ĐS, tỉnh Thanh Hoá; nơi cư trú: Thôn TT, xã ĐQ, huyện ĐS, tỉnh Thanh Hoá; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Không biết, con bà: Trịnh Thị TT (Đã chết); vợ, con: Chưa có; tiền sự: Ngày 07/09/2020 bị Công an huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” theo Quyết định số 0061603/QĐ-XPHC; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 01/07/2021 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Bản án số 256/2021/HS-ST; bị tạm giam từ ngày 07/06/2022 cho đến nay. Có mặt.

Người làm chứng:

1, Nguyễn Viết V, sinh năm 1987.

Địa chỉ: Thôn TT, xã ĐQ, huyện ĐS, Thanh Hoá. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

2, Nguyễn Viết D, sinh năm: 2004 Địa chỉ: Thôn PN, xã QY, huyện QX, Thanh Hóa. Vắng mặt. Người giám hộ: Anh Nguyễn Viết G – Bố đẻ. Vắng mặt.

3, Nguyễn Hoàng L, sinh năm: 1988 Địa chỉ: Thôn TT, xã ĐQ, huyện ĐS, Thanh Hóa. Vắng mặt.

4, Nguyễn Thừa K, sinh năm: 1996 Địa chỉ: Phố TS, phường AH, TP.TH, Thanh Hóa. Vắng mặt.

5, Anh Lê Gia P, sinh năm: 1990 Địa chỉ: Thôn TL, xã TK, huyện NC, Thanh Hóa. Vắng mặt.

6, Chị Đinh Thị Thu H, sinh năm: 2002 Địa chỉ: Thôn TT, xã ĐQ, huyện ĐS, Thanh Hóa. Vắng mặt.

7, Nguyễn Thị H, sinh năm: 2001 Địa chỉ: SN XX LL, KPH, thị trấn TX, huyện TX, Thanh Hóa. Vắng mặt.

8, Anh Dương Đình S, sinh năm: 2001 Địa chỉ: Thôn B, xã TT, huyện NC, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

9, Anh Nguyễn Hưng, sinh năm: 1976 Địa chỉ: SN B LK1, khu đô thị ĐS, phường AH, TP. TH, tỉnh Thanh Hóa. Hiện đang chấp hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Vào khoảng 19 giờ 30 phút ngày 02/3/2021 tại nhà ở của Trịnh Ngọc A có 07 người gồm: Trịnh Ngọc A (chủ nhà); Nguyễn Viết V, SN 1987 ở thôn 1 Thịnh Trị, xã ĐQ, huyện ĐS; Lê Gia P, SN 1990 ở thôn TL, xã TK, huyện NC; Dương Đình S, SN 2001 ở thôn B, xã TT, huyện NC; Nguyễn Thị H, SN 2001 ở khu 2, TT. TX, huyện TX; Nguyễn Viết D, sinh ngày 06/9/2004 ở thôn YP, xã QY, huyện QX; Đinh Thị Thu H, SN 2005 ở thôn ĐT, xã HQ, huyện NX đang chuẩn bị ăn cơm tại sân nhà A thì có 04 người đi bộ vào gồm: Nguyễn Hoàng L; SN 1988, ở thôn TT, xã ĐQ, huyện ĐS; Nguyễn Thừa K, SN 1996 ở Phố TS, P. AH, TP. TH; Nguyễn Văn L, SN 1994, ở thôn T, , TP. SS cùng với Nguyễn Thanh H, SN 1990 ở thôn M, xã QH, TP SS. Khi đi vào sân nhà A thì Nguyễn Hoàng L gọi “Thằng AT đâu rồi, gọi thằng NC ra đây cho tao”, nghe L gọi thì An đi từ trong phòng ra hè, P và một số người cũng ra hè đứng. Lúc này, L hỏi “thằng NC đâu rồi”, P trả lời “em đây ạ”. L hỏi P “cái ví của thằng em tao đâu”, P trả lời “em không biết”. Do P không nhận nên L đứng dưới sân cầm gậy 03 khúc bằng kim loại vụt 02 cái vào cổ bên trái của P. L đi lại túm cổ áo định đánh P thì V chạy lại nói “L bạn tao có thể đánh, chứ bay không có quyền đánh hắn”. Thấy vậy, Nguyễn Hoàng L nhảy lên cầm gậy sắt đánh vào vùng bướu đỉnh tai trái của V làm cho V bị thương trầy xước rách da chảy máu. Sau khi bị L đánh thì V dùng tay pH rút con dao nhọn để trong túi quần ra đâm một nhát vào vùng mạn sườn trái của K. Sau đó, V cầm dao đâm một nhát vào vùng lưng hông bên trái của L. Sau khi vụ việc xảy ra, Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa.

Sau khi sự việc xảy ra thì V A đã gặp nhau tại một nhà nghỉ ở huyện NC. Tại đây, A được biết chính V là người đã gây ra thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L nên An thống nhất với V A sẽ nhận tội thay cho V để V ở ngoài lo cho A. Đồng thời, V đã hứa hẹn với A là nếu A nhận tội thay cho V thì V sẽ cho A số tiền là 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng).

Sau khi đã thống nhất nhận tội thay cho V, đến ngày 05/3/2021, A đến Công an huyện ĐS đầu thú và khai nhận là người đã dùng dao gây ra thương tích cho Nguyễn Hoàng L và Nguyễn Thừa K. Tại các biên bản làm việc với Cơ quan điều tra vào các ngày 07/03/2021, ngày 08/03/2021, An vẫn khẳng định A là người cầm dao gây thương tích cho L K. Đến các ngày 16/4/2021, ngày 19/4/2021 và ngày 30/7/2021, A lại thay đổi lời khai. Cụ thể, A khai báo: A không phải là người gây thương tích cho L K. A không biết ai là người gây ra thương tích cho L K nhưng theo A thì người gây thương tích cho K L chính là Nguyễn Viết V. Ngày 26/8/2021, A lại khai báo: A là người gây ra thương tích cho Nguyễn Thừa K, còn lý do trước đây A khai gây ra thương tích cho cả Nguyễn Hoàng L A nhận tội thay cho V. Đến các ngày 01/9/2021, 09/9/2021, 22/12/2021 và 23/12/2021, A lại khai báo A không gây thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L. Người gây ra thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L là Nguyễn Viết V. Quá trình điều tra xác định, người gây thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L là Nguyễn Viết V, Nguyễn Viết V cũng đã bị Tòa án nhân dân huyện ĐS, tỉnh Thanh Hóa xét xử về hành vi gây thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L, bản án đã có hiệu L pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 11/CT-VKS-ĐS ngày 03 tháng 03 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân (sau đây viết tắt là VKSND) huyện ĐS, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Trịnh Ngọc A về tội “Khai báo gian dối” theo khoản 1 Điều 382 của Bộ luật Hình sự (sau đây viết tắt là BLHS).

Tại phiên toà, đại diện VKSND giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 382; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS: Xử phạt Trịnh Ngọc A từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Áp dụng khoản 1 điều 56; điều 55 BLHS, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án từ 30 tháng tù đến 33 tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 16/04/2021 Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận: Do Nguyễn Viết V hứa hẹn cho bị cáo số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng) nên mặc dù bị cáo không phải là người gây thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L nhưng tại cơ quan điều tra bị cáo đã khai chính bị cáo là người gây thương tích cho K L là nhằm để nhận tội thay cho V chứ thực ra V mới là người gây thương tích cho K L. Đến nay, do biết không thể nhận tội thay cho V và cơ quan điều tra cũng đã biết được sự thật vụ án nên bị cáo đã khai sự thật là bị cáo đã khai báo gian dối về hành vi gây thương tích cho K L.

Trong quá trình điều tra, lời khai của những người làm chứng phù hợp với nội dung sự việc như cáo trạng đã truy tố bị cáo.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX) cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện ĐS, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện ĐS, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS). Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng, và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Về trách nhiệm hình sự: Mặc dù không phải là người gây thương tích cho Nguyễn Hoàng L và Nguyễn Thừa K nhưng vào ngày 05/03/2021, A đến Công an huyện ĐS đầu thú và khai nhận là người đã dùng dao gây ra thương tích cho Nguyễn Hoàng L và Nguyễn Thừa K. Tại các biên bản làm việc với Cơ quan điều tra vào các ngày 07/03/2021, ngày 08/03/2021, A vẫn khẳng định A là người cầm dao gây thương tích cho L K. Đến các ngày 16/4/2021, ngày 19/4/2021 và ngày 30/7/2021, An lại thay đổi lời khai. Cụ thể, A khai báo: A không pH là người gây thương tích cho L K. An không biết ai là người gây ra thương tích cho L K nhưng theo An thì người gây thương tích cho K L chính là Nguyễn Viết V. Ngày 26/8/2021, A lại khai báo: A là người gây ra thương tích cho Nguyễn Thừa K, còn lý do trước đây A khai gây ra thương tích cho cả Nguyễn Hoàng L A nhận tội thay cho V. Đến các ngày 01/9/2021, 09/9/2021, 22/12/2021 và 23/12/2021, A lại khai báo A không gây thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L. Người gây ra thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L là Nguyễn Viết V, V cũng đã bị Tòa án xét xử về hành vi trên, bản án đã có hiệu L pháp luật. Hành vi nhiều lần khai báo gian dối của Trịnh Ngọc A đã dẫn đến hậu quả đó là:

Đã gây khó khăn, cản trở trong quá trình điều tra để chứng minh sự thật khách quan của vụ án. Cơ quan điều tra đã phải gia hạn điều tra vụ án hình sự nhiều lần, gia hạn tạm giam đối với bị can Nguyễn Viết V, dẫn đến vụ án đã phải kéo dài gần một năm mới chứng minh được đối tượng gây án và mới kết luận được vụ án.

Cơ quan cảnh sát điều tra đã phải dùng nhiều biện pháp nghiệp vụ để thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh sự thật của vụ án, mãi tới khi có đủ tài liệu chứng minh Nguyễn Viết V là đối tượng trực tiếp gây thương tích cho Nguyễn Thừa K và Nguyễn Hoàng L thì Trịnh Ngọc A mới khai ra sự thật vụ án.

Do việc khai báo gian dối của Trịnh Ngọc A dẫn đến việc ba cơ quan tư pháp cấp huyện, cấp tỉnh phải họp nhiều lần để đánh giá tài liệu, chứng cứ từ đó mới đưa ra quan điểm xử lý vụ án khách quan tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo đã có hành vi phạm vào khoản 1 Điều 382 BLHS.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có 01 tình tiết giảm nhẹ như sau: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo khai trung thực các tình tiết của vụ án là đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS.

Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo sớm trở về đoàn tụ với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[5] Tuy nhiên, hành vi khai báo gian dối của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sự đúng đắn của hoạt động tố tụng. Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và có nhân thân xấu. Nên cần xét xử bị cáo một mức án tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo và cần cách ly khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội, đồng thời răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 382; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 55, khoản 1 Điều 56 BLHS:

Tuyên bố: Bị cáo Trịnh Ngọc A phạm tội “Khai báo gian dối”.

Xử phạt: Trịnh Ngọc A 06 (Sáu) tháng tù. Tổng hợp hình phạt 24 (Hai mươi tư) tháng tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 256/2021/HS-ST ngày 01/07/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hoá, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 16/04/2021).

Án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: bị cáo Trịnh Ngọc A phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội khai báo gian dối số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;