Bản án về tội hủy hoại rừng số 94/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 94/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 657/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Chu Văn L, sinh ngày 08 tháng 3 năm 1966 tại huyện B, tỉnh Cao Bằng.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm N, xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hoá: lớp 0/12 phổ thông; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Chu Văn S và bà Phương Thị E (đều đã chết); có vợ là Lương Thị C, sinh năm 1970 và 03 con; tiền án, tiền sự: không có;

Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 28-7-2022 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng; có mặt.

* Người làm chứng:

- Chu Văn H, sinh năm 1988; Lương Thị C, sinh năm 1970;

Cùng trú tại: Xóm N, xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng. Đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 14 giờ 30 phút ngày 24/3/2022 tổ công tác Phòng An ninh kinh tế Công an tỉnh Cao Bằng phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện B phát hiện tại khu vực rừng thuộc xóm P, xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng bị đào bới, san ủi nhưng không được phép của cơ quan có thẩm quyền. Ngày 30/3/2022 Cơ quan điều tra phối hợp với các Cơ quan liên quan tiến hành khám nghiệm hiện trường khu vực rừng bị huỷ hoại, xác định diện tích rừng bị huỷ hoại là 12.378m2 (mười hai nghìn ba trăm bảy mươi tám mét vuông), trong đó 10.140m2 thuộc lô 51 (lô 49 cũ), khoảnh 12, tiểu khu 6, thửa đất số 261, tờ bản đồ số 3 của xã T chủ đất là Hoàng Văn T (sinh năm 1976; trú tại: Khu 4, thị trấn M, huyện B, tỉnh Cao Bằng); 2.238m2 thuộc lô 56, khoảnh 12, tiểu khu 6, thửa đất 287, tờ bản đồ số 3 của xã T, chủ đất là Hoàng Văn H (sinh năm 1980; trú tại xóm N, xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng). Tại hiện trường, cây rừng bị chặt hạ để ngổn ngang, gom thành từng đống, một số cây bị cắt ra thành nhiều đoạn và bị đốt cháy. Một số vị trí được cuốc thành từng hốc và trồng cây sắn có mầm đang mọc lên. Trên khu vực bị phá huỷ có hai tuyến đường đất được san gạt ở dưới chân đồi và sườn đồi. Theo Quyết định số 415/QĐ-UBND ngày 31/3/2015 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Cao Bằng về việc “Phê duyệt kết quả rà soát, điều chỉnh quy hoạch 03 loại rừng tỉnh Cao Bằng” và Quyết định số 223 ngày 26/1/2022 của Uỷ ban nhân dân huyện B về việc “Phê duyệt kết quả hiện trạng rừng huyện B năm 2021” thì diện tích rừng bị huỷ hoại là Loại rừng sản xuất, có đặc điểm gỗ tự nhiên núi đất lá rậm thường xanh nghèo, các loại cây trên rừng đều thuộc nhóm gỗ thông thường (từ nhóm 5 trở lên), có trữ lượng 63m3/ha.

Quá trình điều tra, xác định được như sau: Ông Hoàng Văn T và bà Lữ Thị T (sinh năm 1979) có thửa đất rừng số 261, tờ bản đồ số 3, địa chỉ tại xóm S (nay là xóm P), xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng, diện tích: 29.411,0 m2, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CD608107 ngày 24/8/2016 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Cao Bằng cấp. Cuối năm 2021 Chu Văn L thoả thuận mua lại với ông Hoàng Văn T thửa đất này với số tiền 70.000.000 đồng, L đã trả trước cho ông Thiên 50.000.000 đồng, số còn lại khi làm xong thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất sẽ trả đầy đủ. Sau khi nhận tiền đặt cọc, ông Thiên giao lại cho Chu Văn L quản lý, sử dụng thửa đất trên. Sau tết Nguyên đán năm 2022, Chu Văn L một mình mang dao, búa lên khu rừng P để chặt hạ cây rừng, mục đích là để trồng cây sắn, cây hồi nhưng do diện tích rộng, không thể tự mình làm được nên L đã thuê 05 người dân tộc Mông (ở tỉnh Hà Giang đến địa phương làm thuê, không rõ tên, tuổi địa chỉ) giúp chặt cây và thu gom lại thành đống nhỏ để đốt, sau đó đào hốc, trồng cây sắn, cây hồi trong thời gian khoảng 20 ngày với số tiền công là 5.700.000 đồng. Phần rừng đã bị huỷ hoại có diện tích 10.140m2. Quá trình làm, có chặt cây cối trên diện tích 2.238m2 thuộc thửa đất số 287 của ông Hoàng Văn H nhưng khi đó ông L không biết. Khi chặt cây, Chu Văn L có thuê một người lái máy xúc (không biết tên, tuổi, địa chỉ) với giá 5.000.000 đồng để múc đất, san gạt, làm đường giáp ranh với các thửa đất khác và nhổ các gốc cây to còn sót lại trên đất.

Tại phiên toà, bị cáo Chu Văn L đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu ở trên.

Ngày 14-6-2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng đã ra Cáo trạng số: 68/CT-VKSCB-P1 truy tố Chu Văn L về tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Hình sự.

Kết thúc phần xét hỏi, Kiểm sát viên tham gia phiên toà trình bày lời luận tội đánh giá các tài liệu, chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của các bị cáo khẳng định quyết định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Chu Văn L về tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố Chu Văn L về tội danh, điều luật đã viện dẫn trong quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Chu Văn L 03 năm tù.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo Chu Văn L không bào chữa, không có ý kiến tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng, Điều tra viên, của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo Chu Văn L và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận tội của bị cáo Chu Văn L tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại tòa có đủ căn cứ kết luận:

Sau tết Nguyên đán năm 2022, Chu Văn L thuê 05 người dân tộc Mông (không biết tên, địa chỉ) tiến hành chặt hạ, gom, đốt cây rừng, huỷ hoại 12.378m2 (mười hai nghìn ba trăm bảy mươi tám mét vuông) diện tích rừng sản xuất thuộc khu vực xóm P, xã T, huyện B, tỉnh Cao Bằng mà không được phép của Cơ quan có thẩm quyền. Mục đích Chu Văn L huỷ hoại rừng là để trồng cây sắn, cây hồi nhằm phát triển kinh tế.

Hành vi chặt phá cây trên đất rừng sản xuất của bị cáo Chu Văn L đã gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị tại địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân cần được xử lý trước pháp luật để làm gương cho những người khác.

Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là do sự thiếu hiểu biết của bị cáo đã chặt phá, hủy hoại cây rừng sản xuất để trồng cây khác mà chưa đăng ký chuyển đổi mục đích sử dụng và được sự cho phép của các Cơ quan chức năng.

Khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, động cơ phạm tội là nhằm mục đích để phát triển kinh tế của gia đình nhưng không đúng với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo Chu Văn L đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm về tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Chu Văn L về tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 là có căn cứ pháp luật.

Xét thấy đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng về tội danh, hình phạt, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ và hành vi phạm tội của Chu Văn L nên cần được chấp nhận.

[3] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Trước khi phạm tội, bị cáo Chu Văn L có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Chu Văn L được hưởng có 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và 01 tình tiết giảm nhẹ mù chữ, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Khoản 4 Điều 348 của Bộ luật Hình sự quy định:

“Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Hội đồng xét xử thấy trước khi phạm tội bị cáo đều có nghề nghiệp là trồng trọt, thu nhập thấp nên không áp dụng một trong các hình phạt bổ sung trên đối với các bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo Chu Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về các vấn đề khác:

Liên quan đến hành vi huỷ hoại rừng của Chu Văn L còn có 05 người dân tộc Mông và người lái máy xúc, nhưng do bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ cụ thể của những người này, nên Cơ quan điều tra không đủ căn cứ để xem xét xử lý theo qui định.

Bị cáo chặt cây cối trên diện tích đất 2.238 m2 của gia đình ông Hoàn Văn H và bà Hoàng Thị Đ, nhưng bà Đ đại diện gia đình có ý kiến không yêu cầu bị cáo L bồi thường. Do vậy, không cần đưa ông H bà Đ tham gia tư cách tố tụng là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Chu Văn L phạm tội “Hủy hoại rừng”.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

Bị cáo Chu Văn L 03 năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt, tạm giam là ngày 28/7/2022.

2. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Chu Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm 200.000 đồng nộp ngân sách Nhà nước.

3. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331; Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Bị cáo Chu Văn L có quyền kháng cáo Bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội hủy hoại rừng số 94/2022/HS-ST

Số hiệu:94/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;