TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀI NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH
BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 10/12/2021 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
Ngày 10 tháng 12 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 20/2021/TLST-HS ngày 09 tháng 11 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2021/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2021, đối với bị cáo:
Đinh Thị Thùy Tr, sinh ngày 10 tháng 10 năm 1988, tại Bình Định; nơi cư trú: Thôn L, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh, giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Thanh T (sinh năm 1955) và bà Phan Thị H (chết); chồng: Ngô Văn T (sinh năm 1987) và có 02 con cùng sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/10/2021, có mặt.
* Nguyên đơn dân sự: Ủy ban nhân dân xã M.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Lê Anh T - Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã M.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Huỳnh Thanh T - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã M (theo văn bản Ủy quyền đề ngày 09/12/2021), có mặt.
Địa chỉ: Xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B.
* Người làm chứng:
- Ông Đinh Thanh T, sinh năm 1955; địa chỉ: Thôn L, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B, có mặt.
* Người được Tòa án triệu tập:
- Ông Trương Đình S, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn Đ, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B, vắng mặt.
- Ông Mai Văn Châu, sinh năm 1969; địa chỉ: Thôn P, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B, vắng mặt.
- Ông Phạm Văn K, sinh năm 1978; địa chỉ: Thôn P, xã Hoài M, thị xã Hoài N, tỉnh Bình Định, vắng mặt.
- Ông Phan Văn H, sinh năm 1977; địa chỉ: Thôn P, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B, vắng mặt.
- Ông Trần Kim T, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn P, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B, vắng mặt.
- Ông Bùi S, sinh năm 1976; địa chỉ: Thôn P, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 21/9/2011, Đinh Thanh Thái Th được Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Hoài N (nay là thị xã Hoài N) giao diện tích 19.100 m2 đất rừng tại lô 37, khoảnh 6, tiểu khu 86, thuộc khu vực Hố Chình, thôn L, xã M, thị xã Hoài N để sử dụng vào mục đích trồng rừng theo dự án KfW6 (Việt Đức). Đến năm 2015, cơ quan chức năng nghiệm thu kết quả thực hiện dự án của Đinh Thanh Thái Th và bàn giao hiện trạng công trình lâm sinh cho Đinh Thanh Thái Th để tiếp tục cùng UBND xã M bảo vệ, phát triển rừng sau khi dự án kết thúc. Đến cuối năm 2017, vì lập gia đình và đi làm ăn ở xa nên Đinh Thanh Thái Th tự ý giao lại diện tích đất rừng trên cho em ruột là Đinh Thị Thùy Tr tiếp tục chăm sóc, bảo vệ nhưng không chỉ rõ ranh giới khu đất.
Đến đầu năm 2018, mặc dù biết rõ không được Nhà nước giao quản lý, bảo vệ, khai thác rừng tại khu vực Hố Chình, thôn L, xã M, thị xã Hoài N nhưng vì mục đích phát triển kinh tế, Đinh Thị Thùy Tr đã tự ý dùng rựa phát dọn dây leo, cây bụi và các cây nhỏ trên diện tích đất rừng được Th giao lại. Đến tháng 3/2019, sau khi phát phát dọn dây leo, cây bụi và các cây nhỏ trên diện tích 11.532 m2 rừng tại khoảnh 8, tiểu khu 78B và khoảnh 6, tiểu khu 86, Tr thuê một người tên S (không rõ nhân thân, lai lịch) dùng cưa máy cưa hạ các cây gỗ lớn trên diện tích đất trên. Đến tháng 7/2019, Đinh Thị Thùy Tr thuê các ông Mai Văn Ch, Phan Văn H, Phạm Văn K, Trần Kim T và Bùi S dọn biên cản lửa tại khu vực đất rừng Tr đã phát dọn để chuẩn bị đốt thực bì, lấy đất trồng keo nhưng bị UBND xã M phát hiện và đình chỉ. Tuy nhiên, đến ngày 18/8/2019, Tr đốt thực bì tại diện tích rừng đã phát dọn trước đó và gây cháy lan sang 2.070 m2 rừng tại lô 4 khoảnh 6, tiểu khu 86.
Ngày 11/9/2020, Trung tâm Quy hoạch nông nghiệp nông thôn tỉnh B giám định thiệt hại về rừng tại lô 112, lô 117, khoảnh 8, tiểu khu 78B; lô 2, lô 4 khoảnh 6, tiểu khu 86 thuộc xã M, kết luận: Rừng thiệt hại có tổng diện tích là 13.602 m2; loại rừng: Rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh nghèo kiệt thuộc rừng sản xuất; trữ lượng thiệt hại 38,36 m3.
Ngày 24/9/2020, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã Hoài Nhơn tiến hành định giá giá trị thiệt hại về rừng và kết luận: Giá trị diện tích rừng bị thiệt hại do bị phá trái pháp luật là 22.441.000 đồng; giá trị diện tích rừng bị thiệt hại do cháy rừng là 4.028.000 đồng, tổng thiệt hại là 26.469.000 đồng.
Bản cáo trạng số: 86/QĐ-KSĐT ngày 08 tháng 11 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định truy tố bị cáo Đinh Thị Thùy Tr về tội “Hủy hoại rừng” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn giữ nguyên quyết định như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Đinh Thị Thùy Tr, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 243, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Đinh Thị Thùy Tr từ 30 đến 36 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Hủy hoại rừng”.
Ý kiến của đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự: Yêu cầu bị cáo Đinh Thị Thùy Tr bồi thường số tiền 26.469.000 đồng để sung ngân sách Nhà nước.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Hoài Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn, Kiểm sát viên, Hạt kiểm lâm thị xã Hoài Nhơn trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, đương sự, người làm chứng và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Đinh Thị Thùy Tr khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của đương sự, người làm chứng và phù hợp với những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở kết luận rằng, từ đầu năm 2018 đến ngày 18/8/2019, vì mục đích trồng keo lai phát triển kinh tế, bị cáo Đinh Thị Thùy Tr phá rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh nghèo kiệt thuộc rừng sản xuất tại các lô 112 và 117 khoảng 8, tiểu khu 78B; các lô 2 và 4 khoảnh 6, tiểu khu 86 thuộc khu vực Hố Chình thuộc thôn L, xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B với tổng diện thích 13.602m2 (diện tích bị chặt phá là 11.532m2, diện tích bị đốt là 2.070m2); trữ lượng gỗ bị thiệt hại 38,36m3, tổng giá trị thiệt hại 26.469.000 đồng.
Như vậy, có đủ cơ sở để khẳng định, hành vi của bị cáo Đinh Thị Thùy Tr đã phạm vào tội “Hủy hoại rừng” được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 Bộ luật Hình sự.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì mục đích trồng keo lai phát triển kinh tế, bị cáo đã hủy hoại 13.602m2 đất rừng gỗ tự nhiên lá rộng thường xanh nghèo kiệt thuộc rừng sản xuất, hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý rừng của Nhà nước, xâm phạm đến môi trường sinh thái, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, do đó, cần phải xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật Hình sự để giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và góp phần phòng ngừa tội phạm chung.
[4] Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoài Nhơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Từ những phân tích nêu trên, xem xét động cơ, mục đích của bị cáo, vì điều kiện kinh tế khó khăn nên trồng keo lai để phát triển kinh tế và nhận thức pháp luật còn hạn chế, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội; đồng thời, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có nhân thân tốt, do đó, để tạo điều kiện cho bị cáo khắc phục hậu quả gây ra, thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng, mà chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo phải bồi thường cho Ủy ban nhân dân xã M số tiền 26.469.000 (hai mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi chín nghìn) đồng để sung vào Ngân sách Nhà nước.
[7] Án phí hình sự và dân sự sơ thẩm: Bị cáo Đinh Thị Thùy Tr phải chịu theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 243, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Đinh Thị Thùy Tr 03 (ba) năm tù về tội “Hủy hoại rừng” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 10/12/2021.
Giao bị cáo Đinh Thị Thùy Tr cho Ủy ban nhân dân xã M, thị xã Hoài N, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian bị cáo thử thách án treo. Trường hợp người bị kết án thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Căn cứ khoản 4 Điều 328 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo Đinh Thị Thùy Tr bị xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo, tuyên bố trả tự do tại phiên tòa cho bị cáo nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Căn cứ các điều 584, 585, 586 và Điều 589 của Bộ luật Dân sự, Điều 48 của Bộ luật Hình sự: Buộc bị cáo Đinh Thị Thùy Tr bồi thường cho Ủy ban nhân dân xã M số tiền 26.469.000 (hai mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi chín nghìn) đồng để sung ngân sách Nhà nước.
Kể từ ngày Quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
4. Về án phí hình sự và dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14: Bị cáo Đinh Thị Thùy Tr phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự và 1.323.500 (một triệu ba trăm hai mươi ba nghìn năm trăm) đồng án phí dân sự để sung ngân sách Nhà nước.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội hủy hoại rừng số 23/2021/HS-ST
Số hiệu: | 23/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Hoài Nhơn - Bình Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/12/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về