TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHIÊM HÓA, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI HỦY HOẠI RỪNG
Ngày 29 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 76/2023/TLST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2024/QĐXXST-HS, ngày 05/01/2024; Quyết định hoãn phiên tòa 02/2024/QĐST-HS ngày 19/01/2024, đối với bị cáo:
Triệu Tiến D, (tên gọi khác: Không), sinh ngày 26/02/1984, tại huyện C, tỉnh Tuyên Quang; nơi thường trú, chỗ ở: Thôn N, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 09/12; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Dao; tôn giáo: Không; con Triệu Du T, sinh năm 1944 và bà Bàn Thị S, sinh năm 1945; vợ: Bàn Thị D1, sinh năm 1984; con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2020. Nhân thân, tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (Có mặt).
- Người bào chữa cho bị cáo: ông Nguyễn Văn T1, Trợ giúp viên pháp lý, công tác tại Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh T, có mặt.
- Nguyên đơn dân sự:
+ UBND xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Người đại diện theo pháp luật: Ông Hoàng Văn Đ, chức vụ: Chủ tịch UBND xã T. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
+ UBND xã L, huyện C, tỉnh Tuyên Quang. Người đại diện theo ủy quyền: Ông Hà Ngọc A, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND xã L. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
- Người làm chứng: Ông Lý Văn S1, sinh năm 1985. Địa chỉ: Thôn K, xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 02 năm 2021 (không xác định được ngày cụ thể), Triệu Tiến D đến khu vực rừng phòng hộ P (thuộc Lô A khoảnh 65 8B theo bản đồ quy hoạch phân 3 loại rừng xã T do UBND xã T quản lý) thuộc thôn K, xã T, huyện C để chặt, phát rừng làm lúa nương. Dương cầm theo 01 dao tư đi đến khu vực rừng nêu trên chặt, phát rừng (chủ yếu là các cây vầu, giang) trong vòng 03 ngày được diện tích 623m2 sau đó dừng lại, chờ thực bì khô để đốt dọn. Sau khi đốt dọn xong, D tiến hành trồng lúa nương trên diện tích đã chặt, phá rừng nêu trên được 02 vụ. Do thấy không bị cơ quan chức năng phát hiện nên khoảng 11 giờ, ngày 31/01/2023, D một mình mang theo 01 dao quắm, 01 bật lửa gas tiếp tục đi đến khu vực nương nêu trên để phát dọn chuẩn bị cho vụ trồng lúa nương tiếp theo. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, D đi đến nương và sử dụng dao quắm để phát dọn dạ lúa, rơm khô và cây cỏ dại trên nương của mình sát với rừng tự nhiên liền kề, sau đó D sử dụng bật lửa để đốt. Khoảng 05 phút sau, lửa cháy to, kết hợp với gió thổi ngược nên lửa cháy vào thảm thực vật tại khu vực rừng phòng hộ liền kề thuộc Lô A khoảnh 658B, sau đó lửa tiếp tục cháy lan ra rừng phòng hộ tại các Lô 12 khoảnh 658B, Lô D khoảnh 658A thuộc thôn K, xã T; rừng sản xuất tại các Lô A, 17, 33 khoảnh 659A thuộc thôn L, xã L khiến toàn bộ thực bì trên diện tích rừng nêu trên bị cháy, các cây thân gỗ, V, G bị than hóa, chết khô, héo. Thấy cháy rừng, D đi đến để dập lửa chữa cháy, nhưng không dập được do lửa cháy to nên D sợ hãi đi về nhà. Khi về đến nhà, D thấy vợ của mình là Bàn Thị D1, sinh năm 1984 đang ở nhà nên D nói “hôm nay đi đốt rơm cây lúa nương bị cháy rừng rồi”, khi đó D1 nói “giờ thì biết làm sao”. Do sợ bị xử lý, nên D không đến cơ quan Nhà nước nào để trình báo về sự việc nêu trên. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, ông Lý Văn S1, phát hiện vụ việc cháy rừng nêu trên nên đã đến UBND xã T để tố giác sự việc.
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường rừng do Triệu Tiến D có hành vi hủy hoại là:
+ Lô 11, 12 khoảnh 658B và Lô 48 khoảnh 658A chức năng rừng phòng hộ thuộc thôn K, xã T, huyện C, theo bản đồ quy hoạch phân 3 loại rừng xã T, ban hành kèm theo Quyết định 1859/QĐ-UBND ngày 31/12/2016 và Quyết định số 1820/QĐ-UBND ngày 18/12/2022 của UBND tỉnh T. Diện tích rừng bị cháy và bị hủy hoại là 3623 m2 (gồm diện tích rừng bị cháy là 3000m2; diện tích rừng D chặt phát làm lúa nương là 623m2). Toàn bộ diện tích rừng nêu trên do Ủy ban nhân dân xã T, huyện C quản lý.
+ Lô A, 17, 33 khoảnh 659A, chức năng rừng sản xuất thuộc thôn L, xã L theo bản đồ quy hoạch phân 3 loại rừng xã L, ban hành kèm theo Quyết định 1859/QĐ-UBND ngày 31/12/2016 và Quyết định số 1820/QĐ-UBND ngày 18/12/2022 của UBND tỉnh T. Diện tích rừng bị cháy là 32.200m2. Toàn bộ diện tích rừng nêu trên do Ủy ban nhân dân xã L, huyện C quản lý.
Tổng diện tích rừng bị hủy hoại là 35.823 m2. Lâm sản thiệt hại gồm: 236 cây thân gỗ từ nhóm VI đến nhóm VIII có khối lượng 17,027m3, 1471 cây G có đường kính từ 2cm - 4cm, dài từ 02 mét - 06 mét, 2900 cây vầu có đường kính từ 03cm - 06cm, cao từ 04 mét - 08 mét.
Tại kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐGTS ngày 27/3/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: Tổng giá trị của 236 cây thân gỗ có tổng khối lượng 17,027m3 gỗ lâm sản; 1471 cây G và 2.900 cây Vầu tại thời điểm tháng 02/2023 có giá trị là 32.125.800 đồng.
Tại Cáo trạng số 02/CT-VKSCH, ngày 26 tháng 12 năm 2023, Viện kiềm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa đã truy tố bị cáo Triệu Tiến D về tội: Hủy hoại rừng, theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Triệu Tiến D phạm tội: Hủy hoại rừng.
Về hình phạt chính: Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 243; điềm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Triệu Tiến D từ 02 năm 07 tháng tù đến 02 năm 10 tháng tù, cho bị cáo được hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách theo quy định của pháp luật, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã tự nguyện trồng 3000 cây Bồ đề trên diện tích rừng 3.000m2 bị thiệt hại với tổng giá trị 13.500.000 đồng. Ngày 17/01/2024 bị cáo Triệu Tiến D đà tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa số tiền 18.625.800 đồng để bồi thường thiệt hại. Giá trị cây Bồ đề, ngày công bị cáo trồng lại rừng và số tiền bị cáo tự nguyện nộp tương đương giá trị thiệt hại bị cáo gây ra là 32.125.800 đồng nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm về trách nhiệm dân sự.
Ngoài ra đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo và tuyên quyền kháng cáo Bản án đối với bị cáo và nguyên đơn dân sự.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo Triệu Tiến D đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại tổng số tiền 32.125.800 đồng (bị cáo trồng cây trên diện tích 3.000m2 rừng bị thiệt hại hết 13.500.000 đồng và tự nguyện nộp bồi thường số tiền 18.625.800 đồng), quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, thuộc hộ nghèo, là dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức và hiểu biết pháp luật còn hạn chế, đại diện UBND xã T, huyện C đề có ý kiến xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điểm đ khoản 2 Điều 243; điểm b, s, khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án khởi điểm khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo thuộc hộ nghèo nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo và ghi nhận bị cáo đã trồng rừng tương đương số tiền 13.500.000 đồng, nộp số tiền 18.625.800 đồng nhằm bồi thường khắc phục hậu quả tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa.
Tại phiên tòa, bị cáo Triệu Tiến D tiếp tục khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, nội dung khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, không có tình tiết mới; bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì, không có ý kiến tranh luận và cũng không có ý kiến gì để bào chữa cho hành vi phạm tội của mình, bị cáo rất hối hận về hành vi phạm tội, sau khi gây ra thiệt hại bị cáo đã có ý thức khắc phục toàn bộ thiệt hại xảy ra, bị cáo có con nhỏ sinh năm 2020, bị cáo là trụ cột gia đình, đang phải chăm sóc bố già yếu nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C, Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chiêm Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố; của Kiểm sát viên tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, phù hợp theo quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Triệu Tiến D khai nhận hành vi phạm tội của mình; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận:
Triệu Tiến D biết diện tích rừng phòng hộ tại Lô A khoảnh 658B thuộc thôn K, xã T, huyện C không thuộc quyền sử dụng của bị cáo nhưng tháng 02 năm 2021 bị cáo cố ý chặt, phát diện tích 623m2 để trồng lúa nương, khi thấy hành vi vi phạm không bị cơ quan chức năng phát hiện, ngày 30/01/2023 bị cáo tiếp tục phát dạ lúa, rơm khô, cây cỏ dại, đốt dọn để trồng vụ mới thì lửa cháy to kết hợp với gió thổi ngược đã khiến lửa cháy lan vào thảm thực vật tại khu rừng phòng hộ thuộc thôn K, xã T và rừng sản xuất tại thôn L, xã L, huyện C. Như vậy, bị cáo Triệu Tiến D đã có hành vi hủy hoại 3.623m2 rừng phòng hộ tại Lô 11,12 khoảnh 658B và lô 48 khoảnh 658A thuộc thôn K, xã T, huyện C và 32.200m2 rừng sản xuất tại Lô A, 17, 33 khoảnh 659A thuộc thôn L, xã L, huyện C. Tổng diện tích rừng bị hủy hoại là 35.823m2, lâm sản bị thiệt hại trị giá 32.125.800 đồng (Ba mươi hai triệu một trăm hai mươi lăm nghìn tám trăm đồng).
Hành vi của bị cáo Triệu Tiến D đã phạm tội “Hủy hoại rừng”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 243 Bộ luật Hình sự.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; đại diện nguyên đơn dân sự (UBND xã T, huyện C) xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo; bị cáo có bố đẻ Triệu Du T là người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và được Chủ tịch N tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng nhất nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về hình phạt: Bị cáo Triệu Tiến D là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc chặt, phát rừng không thuộc quyền sử dụng của mình để canh tác và việc đốt dạ lúa, rơm khô, cây cỏ dại khi đường ranh cản lửa không đảm bảo kết hợp với gió to sẽ khiến lửa cháy lan ra khu vực rừng phòng hộ và rừng sản xuất liền kề do UBND xã T và UBND xã L quản lý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện dẫn đến hủy hoại 35.823m2 diện tích rừng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý rừng của Nhà nước; xâm phạm nghiêm trọng đến môi trường sinh thái, dẫn đến những hậu quả khác như lũ lụt, sạt lở đất, hạn hán..., ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự và đời sống, xã hội tại địa phương nên phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.
Căn cứ nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo Triệu Tiến D chưa có tiền án, tiền sự, có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên cần áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nơi cư trú rõ ràng, người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho hưởng án treo không nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo có đủ căn cứ để được miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự, Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo đồng thời ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục và làm gương phòng ngừa tội phạm chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Khoản 4 Điều 243 Bộ luật Hình sự quy định người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Xét thấy, bị cáo thuộc hộ nghèo, bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả, thực hiện nghĩa vụ bồi thường cho Nhà nước nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Triệu Tiến D đã tự nguyện trồng cây Bồ đề trên diện tích rừng phòng hộ 3.000m2 thuộc quản lý của UBND xã T, với tổng giá trị 13.500.000 đồng (tiền cây giống, công trồng, công phát dọn rừng, phân bón). Ngày 17/01/2024 bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền 18.625.800 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa để bồi thường thiệt hại. Giá trị số cây Bồ đề, phân bón và ngày công bị cáo trồng rừng và số tiền bị cáo tự nguyện nộp tương đương giá trị thiệt hại là 32.125.800 đồng. Bị cáo đã tự nguyện bồi thường toàn bộ thiệt hại về lâm sản đã gây ra. Nguyên đơn dân sự UBND xã L, UBND xã T, huyện C không có ý kiến yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm. Do vậy, Hội đồng xét xử cần xem xét ghi nhận bị cáo đã bồi thường thiệt hại và khắc phục hậu quả.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt cũng như các vấn đề khác đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với ý kiến của Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử chấp nhận các đề nghị về tội danh, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và cho bị cáo được hưởng án treo mà người bào chữa đã đề nghị.
[8] Đối với hành vi không tố giác tội phạm của Bàn Thị D1, do thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 19 của Bộ luật Hình sự, hành vi nêu trên của D1 không phải chịu trách nhiệm hình sự nên không đề cập xử lý.
[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Triệu Tiến D thuộc hộ nghèo, có đơn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm nên Hội đồng xét xử xem xét miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo. Bị cáo, nguyên đơn dân sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điềm đ khoản 2 Điều 243; các điềm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54, Điều 38, Điều 65 của Bộ luật Hình sự; các Điều 135, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Triệu Tiến D phạm tội “Hủy hoại rừng”.
2. Về hình phạt: Xử phạt Triệu Tiến D 02 năm 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 29/01/2024.
Giao bị cáo Triệu Tiến D cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện C, tỉnh Tuyên Quang để giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự năm 2019. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo Triệu Tiến D trồng cây Bồ Đề trên diện tích rừng 3.000m2 và công phát dọn rừng, công trồng cây, tiền phân bón trị giá 13.500.000 đồng (Mười ba triệu năm trăm nghìn đồng) và nộp bồi thường 18.625.800 đồng (Mười tám triệu sáu trăm hai mươi lăm nghìn tám trăm đồng) theo biên lai thu tiền số 0001223 ngày 17/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chiêm Hóa. Số tiền bị cáo đã nộp được sung vào ngân sách Nhà nước (Bị cáo đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường thiệt hại).
4. Về án phí: Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Triệu Tiến D.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kề từ ngày tuyên án sơ thẩm. Nguyên đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội hủy hoại rừng số 04/2024/HS-ST
Số hiệu: | 04/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Chiêm Hóa - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/01/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về