TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 37/2021/HS-PT NGÀY 23/09/2021 VỀ TỘI HIẾP DÂM NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 23 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xét xử kín vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 40/2021/TLPT-HS ngày 06/9/2021 đối với bị cáo Vi Văn S, do có kháng cáo của Người đại diện hợp pháp cho bị hại đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 26/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Lào Cai.
- Bị cáo bị kháng cáo:
Vi Văn S (Tên gọi khác: Không) - Sinh ngày 08 tháng 01 năm 1967, tại huyện TB, tỉnh Phú Thọ.
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn TH, thị trấn PL, huyện BT, tỉnh Lào Cai.
Nơi ở trước khi bị bắt: Thôn AT, thị trấn PL, huyện BT, tỉnh Lào Cai. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 4/10. Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam. Con ông: Vi Hữu H, sinh năm 1929 (đã chết) và con bà: Nguyễn Thị V, sinh năm 1930, trú tại thôn AT, thị trấn PL, huyện BT, tỉnh Lào Cai. Bị cáo có vợ: Đàm Thị Th, sinh năm 1969, trú tại thôn AT, thị trấn PL, huyện BT, tỉnh Lào Cai. Bị cáo có 04 con, con lớn nhất sinh năm 1990, con nhỏ nhất sinh năm 2002.
Tiền án: Không; Tiền sự: Không. Nhân thân: Tốt.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 10/4/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam tỉnh Lào Cai. Có mặt.
- Bị hại: Cháu Nguyễn Thị PA, sinh ngày 21/01/2008. Nơi cư trú: Thôn AT, thị trấn PL, huyện BT, tỉnh Lào Cai. Vắng mặt
- Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thị PA: Chị Lý Thị V1, sinh năm 1991 và anh Nguyễn Duy B, sinh năm 1987; Cùng cư trú tại: Thôn AT, thị trấn PL, huyện BT, tỉnh Lào Cai.
Người đại diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Duy B là chị Lý Thị V1.
Anh Nguyễn Duy B và chị Lý Thị V1 đều có mặt.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại: Bà Phạm Thị Hoa H1 - Trợ giúp viên Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng hơn 16 giờ ngày 07/4/2021, Vi Văn S đang dạy cháu ngoại là Đỗ Vy A1 tập viết ở sân nhà mình thuộc thôn AT, thị trấn PL, huyện BT, tỉnh Lào Cai thì hai chị em cháu hàng xóm là cháu Nguyễn Thị PA và cháu Lý Thị Thảo V2 đi xe đạp đến chơi. Thấy vậy, S không dạy cháu An tập viết nữa mà đi lấy kẹo chia cho 03 cháu rồi để các cháu chơi cùng nhau ở quanh nhà S. Cả 03 cháu chơi ở nhà S một lúc đến khoảng gần 17 giờ cùng ngày, cháu Thảo Vy đạp xe đạp đi ra hướng đường bê tông, cháu Vy A1 cũng chạy theo cháu Thảo V2, còn cháu PA ngồi chơi xe lắc ở sân nhà S. Nhìn thấy PA ngồi chơi một mình ở sân, S đứng ở hiên nhà gọi PA đi vào trong nhà cùng S. PA đi theo S vào nhà qua lối đi cửa chính thứ nhất còn cửa chính thứ hai khi đó được khép kín và chốt chặt bên trong. Khi vào trong nhà, S đi vào gian phòng ngủ và ngồi lên giường kê trong gian phòng ngủ thứ nhất, PA cũng đi đến ngồi lên giường sát cạnh phía bên phải của S. Lúc này, trong phòng chỉ có S và PA, biết PA hạn chế về nhận thức so với những đứa trẻ bình thường nên S đã nảy sinh ý định giao cấu với PA. S đi đến đứng trước mặt của PA rồi dùng tay phải đẩy vào vai trái của PA làm PA nằm ngửa ra giường, đầu quay về hướng cửa sổ. S kéo quần dài và quần lót của PA xuống đến dưới đầu gối. Thấy PA không phản ứng gì, S tiếp tục cởi quần dài và quần lót của mình kéo xuống đến dưới đầu gối, rồi thực hiện hành vi giao cấu và xuất tinh vào trong âm hộ của PA. Đúng lúc này mẹ đẻ của cháu PA là chị Lý Thị Vui đi xe máy đến nhà S tìm con. Nghe thấy tiếng chị V1, S kéo quần của mình lên, bảo cháu PA là mẹ cháu đang tìm và kéo quần cháu PA lên rồi đi ra ngoài. Thấy S đi từ trong nhà ra, chị V1 hỏi “Ông có thấy bọn trẻ đâu không” thì S nói dối là “Chúng nó vừa rủ nhau đi chơi ở đâu đấy”. Nghe vậy, chị V1 điều khiển xe máy đi ra đường bê tông để tìm con, còn S quay lại gian phòng ngủ bảo cháu PA đi về nhà. Trên đường về nhà, PA gặp mẹ ở cổng nhà S và được mẹ đưa về nhà. Về đến nhà chị V1 phát hiện vùng âm hộ của cháu PA bị chảy máu thì kể lại với chồng là anh Nguyễn Duy B. Nghi ngờ S đã xâm hại tình dục cháu PA nên anh Bình đến nhà S để hỏi nhưng S không thừa nhận hành vi giao cấu với cháu PA. Gia đình chị Vui đã trình báo sự việc đến Cơ quan CSĐT Công an huyện BT để xác minh làm rõ. Tại cơ quan điều tra, biết không thể trốn tránh pháp luật nên S đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 78/TD ngày 15/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai đối với Nguyễn Thị PA kết luận: Xung huyết niêm mạc tiền đình bên phải. Màng trinh rách mới vị trí 03 giờ và 05 giờ, còn rỉ máu. Tìm thấy hình ảnh tinh trùng có đuôi không di động trong dịch âm đạo. Trên cơ thể không có dấu vết thương tích. Mức tổn hại cơ thể 0% (không phần trăm). Không có thai. Công văn số 23/CV-TTPY ngày 23/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai trả lời kết quả xét nghiệm HIV đối với Nguyễn Thị PA tại thời điểm lấy mẫu máu ngày 13/4/2021: Âm tính.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tình dục số 79/TD ngày 15/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai đối với Vi Văn S kết luận: Trên cơ thể không có dấu vết thương tích. Bộ phận sinh dục phát triển bình thường, không tổn thương. Độ cương cứng của dương vật đủ khả năng thực hiện hành vi giao cấu. Công văn số 18/CV-TTPY ngày 23/4/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai trả lời kết quả xét nghiệm HIV đối với Vi Văn S tại thời điểm lấy mẫu máu ngày 13/4/2021: Âm tính.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về ADN số 174/21/TC-ADN ngày 10/4/2021 của Viện pháp y Quốc Gia, kết luận: Thử định tính phát hiện nhanh vết tinh dịch người trên mẫu dịch thu trong âm đạo của Nguyễn Thị PA: Dương tính. ADN của nam giới thu từ mẫu dịch thu trong âm đạo của Nguyễn Thị PA trùng khớp hoàn toàn với ADN của Vi Văn S.
Đối với tình trạng sức khỏe của cháu Nguyễn Thị PA, tại Giấy xác nhận khuyết tật số 10.86.02941.0008 ngày 24/02/2020 của chủ tịch UBND xã PL (nay là thị trấn PL) xác nhận PA bị khuyết tật trí tuệ mức độ nặng và được hưởng trợ cấp xã hội mức trợ cấp là 540.000 đồng/tháng.
Tại bản kết luận giám định về sức khỏe số 91/SK ngày 28/04/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Lào Cai, kết luận: Tại thời điểm giám định cháu Nguyễn Thị PA bị suy giảm nhận thức bản thân, không gian, thời gian, khả năng nhận thức tư duy kỹ năng sống rất kém, chậm phát triển tâm thần mức độ nặng nên rất hạn chế về khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 26/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Lào Cai đã quyết định:
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 142; Điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Vi Văn S phạm tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, xử phạt bị cáo Vi Văn S 08 (Tám) năm 05 (Năm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 10/4/2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584; 585; 590; 592 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Vi Văn S phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị PA tổng số tiền là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án còn tuyên án phí, quyền kháng cáo theo quy định.
Ngày 09/8/2021, Người đại diện hợp pháp cho bị hại kháng cáo, đề nghị cấp phúc thẩm tăng mức hình phạt đối với bị cáo và tăng mức bồi thường thiệt hại cho gia đình bị hại.
Tại phiên tòa:
Chị Lý Thị V1, anh Nguyễn Duy B là người đại diện hợp pháp cho bị hại vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Bị cáo Vi Văn S không có kháng cáo, nhưng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung bản án sơ thẩm.
Quan điểm giải quyết vụ án của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lào Cai:
Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 26/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Lào Cai.
Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị hại: Đề nghị HĐXX chấp nhận kháng cáo của người đại diện của bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa cho bị cáo, người đại diện bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, xác định các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo Tại phiên tòa, bị cáo Vi Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người đại diện hợp pháp của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã có trong hồ sơ. Do đó đủ cơ sở để kết luận: Ngày 07/4/2021 bị cáo S đã lợi dụng việc bị hại Nguyễn Thị PA không có khả năng tự vệ để thực hiện hành vi giao cấu trái với ý muốn. Tại thời điểm đó, bị hại mới 13 tuổi 02 tháng 17 ngày và bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi. Do đó hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi” Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 26/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Lào Cai xử phạt bị cáo Vi Văn S về tội “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi ” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 142 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của người đại diện hợp pháp cho bị hại về tăng hình phạt và tăng mức bồi thường thiệt hại.
Xét thấy: Bản án sơ thẩm đã đánh giá về hành vi phạm tội, nhân thân và áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Tuy nhiên xử bị cáo mức án 08 năm 05 tháng tù là nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội và không đủ sức cải tạo, giáo dục đối với bị cáo, răn đe và phong ngừa chung. Bởi lẽ, hành vi của bị cáo là rất nghiêm trong. Bị cáo đã lợi dụng khả năng không thể tự vệ được của bị hại, đây là tình tiết định tội theo quy định của Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 01/10/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cáo. Đặc biệt hành vi của bị cáo gây ảnh hưởng lớn đến danh dự, nhân phẩm cho người bị hại. Sau khi phạm tội bị cáo chưa thực sự ăn năn hối cải, không kịp thời bồi thường khắc phục hậu quả, gây bức xúc về tinh thần cho gia định bị hại.
Như vậy thấy rằng có căn cứ chấp nhận kháng cáo của người đại diện cho bị hại về tăng mức hình phạt đối với bị cáo Vi Văn S.
Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện của bị hại yêu cầu bị cáo bồi thường tổng số tiền 100.000.000 đồng. Tuy nhiên, thấy rằng yêu cầu bồi thường của người đại diện bị hại có một số khoản quá cao so với quy định của pháp luật, nên không được chấp nhận.
Xét thấy: Bản án sơ thẩm đã nhận định đánh giá về thiệt hại thực tế đối với người bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại với tổng số tiền là 45.000.000 đồng, gồm các khoản cụ thể: Tiền tổn thất công lao động của người chăm sóc 45 ngày là 9.900.000 đồng; Tiền đi lại, khám, siêu âm, tiền mua thuốc là 6.200.000 đồng; Tiền tổn thất về tinh thần do danh dư, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm là 14.900.000 đồng; Tiền tổn thất về tinh thần cho bố mẹ PA là 7.000.000 đồng/người. Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng, đối với khoản thiệt hại về công lao động và tiền tổn thất về tinh thần cho bố mẹ của người bị hại là không có căn cứ và không đúng quy định của pháp luât. Tuy nhiện tại phiên tòa bị cáo chấp nhận bồi thường 50.000.000 đồng, mặc dù mực bồi thường cao hơn các thiệt hại thực tế, nhưng do bị cáo tự nguyện nhất trí bồi thường cho gia định bị hại nên xét thấy là phù hợp, được chấp nhận.
Ngoài ra, tại phần quyết định của bản án sơ thẩm đã tuyên “Buộc bị cáo Vi Văn S phải có trách nhiệm bồi thường cho bi hại Nguyễn Thị PA tổng số tiền là 50.000.000 đồng" là không chính xác, khó cho việc thi hành bản án.
Từ những phân tích trên thấy rằng phần kháng cáo về tăng mức bồi thường thiệt hại của đại diện bị hại là không có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên cần phải sửa về cách tuyên phần trách nhiệm dân sự trong bản án để đảm đúng quy định pháp luât.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự:
Chấp nhận một phần kháng cáo của chị Lý Thi V1 và anh Nguyễn Duy B là người đại diện hợp pháp cho bị hại. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2021/HS-ST ngày 26/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện BT, tỉnh Lào Cai về phần hình phạt đối với bị cáo Vi Văn S như sau:
- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 142, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Tuyên bố bị cáo Vi Văn S phạm tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”, xử phạt bị cáo Vi Văn S 09 (chín) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 10/4/2021.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584; 585; 590; 592 Bộ luật dân sự. Buộc bị cáo Vi Văn S phải có trách nhiệm bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị PA do chị Lý Thi V1 và anh Nguyễn Duy B là người đại diện hợp pháp tổng số tiền là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành xong các khoản tiền, hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chậm thi hành án tương ứng với thời gian chậm thi hành án theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Vi Văn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cư- ỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi số 37/2021/HS-PT
Số hiệu: | 37/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về