TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 759/2022/HS-PT NGÀY 14/10/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 14 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội tiến hành xét xử phúc thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 180/2022/TLPT-HS ngày 05 tháng 7 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 9525/2022/QĐXXPT-HS ngày 29/9//2022 do có kháng cáo của các bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 13/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.
- Các bị cáo có kháng cáo:
1. Phạm Văn D, sinh năm 1994 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Khu C, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Cử nhân; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn Q và bà Đỗ Thị T; vợ là Lê Thị Lan A; con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 12/10/2020 đến ngày 19/10/2020 chuyển tạm giam; có mặt.
2. Phạm Văn T1, sinh năm 1993 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: Lớp 09/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T2 và bà Nguyễn Thị L; vợ là Vũ Thị Lan H; có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ từ ngày 12/10/2020 đến ngày 19/10/2020 chuyển tạm giam; có mặt.
3. Phạm Hồng P, sinh năm 1992 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Khu G, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn C và bà Nguyễn Thị T3; vợ là Nguyễn Thị H1; có 03 con, tiền án, tiền sự: Không. Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 13/8/2021; có mặt.
- Bị hại (đồng thời là bị cáo trong vụ án):
+ Phạm Hồng P, sinh ngày 22/4/1992; nơi cư trú: Khu G xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.
+ Phạm Văn D, sinh ngày 06/7/1994; nơi cư trú: Khu C xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn D:
+ Ông Lê Bá C1, Luật sư Công ty L3, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.
+ Ông Trần Hữu K, sinh năm 1954; Luật sư Công ty L4, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T1:
+ Ông Nguyễn Đăng K1, Luật sư Văn phòng L5, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt.
+ Ông Nguyễn Đức C2, Luật sư Công ty L6, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt
- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Hồng P: Bà Trịnh Thị D1, Luật sư Công ty L7, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 09h00, ngày 12/10/2020, Phạm Văn D đang trên đường đi làm qua khu vực cầu T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng thì gặp Phạm Hồng P trên đường đi bộ về nhà. P cho rằng D “nhìn đểu” mình nên gây sự rồi đánh P, hai người xô xát, đánh nhau bằng chân tay và được mọi người can ngăn.
Khoảng 10h00 cùng ngày, do bực tức vì bị P vô cớ gây sự, D gọi điện thoại cho Phạm Văn T1 và Ngô Trung H2, sinh năm 1997, trú tại thôn F, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng, Nguyễn Văn L1, sinh năm 1997 trú tại thôn T, xã V, huyện T, thành phố Hải Phòng hẹn gặp nhau tại quán nước của anh Lê Văn L2 ở khu vực cổng Công ty G, thuộc khu G, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng. Tại đây, D kể cho T1, H2, L1 về việc D vừa đánh nhau với P và rủ mọi người đến nhà P nói chuyện. D lấy trong quán nước 01 chiếc rìu đã cũ rỉ, ngồi lên phía sau xe máy của T1 rồi cùng với H2 đi xe máy chở L1 đến nhà P. Khi đến nơi, D để rìu tại võng xe máy (khu vực cổng nhà P) rồi cùng H2, L1 đi bộ đến cửa nhà gọi P ra nói chuyện, còn T1 đứng tại vị trí để xe máy gọi điện thoại cho Đỗ Việt A1, sinh năm 1993, nơi cư trú: Thôn N, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng để mượn kiếm. Lúc này, P ở trong nhà đi ra, thấy D và một số người đứng ở cửa, P liền chạy ra dùng chân đá vào người D, thấy vậy H2 xông vào ôm, đẩy P, còn L1 xông vào ôm, giữ D; P chạy vào trong nhà lấy tuýp sắt ra định đánh nhóm của D, thì được mọi người can ngăn, đẩy vào nhà.
Sau đó D, T1, H2, L1 về quán nước của bà Nguyễn Thị K2 ở khu vực cổng Công ty G. Lúc này A1 đi xe máy mang theo 01 thanh kiếm dài 84,7cm đến đưa cho T1, nhưng do thấy kiếm dài nên T1 trả lại và bảo An mang về. Cùng lúc đó, Nguyễn Văn T4 (là anh họ của T1) điều khiển xe ô tô giao đá lạnh đi ngang qua, do biết trên xe của T4 có 01 con dao (dạng dao mèo) nên T1 đi đến gặp T4 hỏi mượn dao rồi lấy dao trên xe ô tô của T4 đưa cho D lúc đó đang ngồi ở quán nước. D nhận dao, đặt dưới cột bê tông cạnh chỗ ngồi, còn H2 đi vào Công ty làm việc, L1 đi về nhà. Khoảng 05 phút sau, D rủ T1 đi về, khi D và T1 đi ra chỗ để xe máy, D cất dao dưới yên xe. Lúc này, P một mình đi xe máy đến, dừng xe cách vị trí của D và T1 khoảng 20m, đồng thời cầm theo một con dao (dạng dao rựa) chạy đến, nhằm về phía D vung dao chém, D dơ tay trái lên đỡ, thì bị trúng vào cổ tay có đeo đồng hồ làm đứt quai đeo, hỏng đồng hồ và làm D bị thương. D mở yên xe máy, lấy dao chém về phía P, còn T1 lấy điếu cày tre ở quán nước vụt về phía P nhưng đều không trúng. P bỏ chạy thì D cầm theo dao đuổi P, T1 cầm điếu cày chạy theo phía sau D. Khi P chạy vào bên trong cửa hàng tạp hóa của gia đình ông Nguyễn Văn H3 cách quán nước khoảng 50m thì bị trượt chân ngã. D xông vào vung dao chém nhiều nhát vào vùng đầu, vai, lưng của P; lưỡi dao tuột khỏi cán văng vào chân của anh Nguyễn Quốc Đ, sinh năm 1992, nơi cư trú: Khu G, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng, làm anh Đ bị thương nhẹ. Lúc này trên tay P vẫn đang cầm dao, thấy D bị tuột dao, P vùng lên vung dao chém lại, D bỏ chạy ra ngoài, P cầm dao đuổi theo sau đến cửa quán thì bị ngã xuống. Sau đó P được mọi người đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện V, còn D bị thương ở tay, tự đi đến phòng y tế của Công ty G sơ cứu.
- Cơ quan điều tra tiến hành khám nghiệm, hiện trường được xác định là đoạn đường tỉnh lộ 212 khu vực từ quán nước của gia đình bà Nguyễn Thị K2 đến khu vực trước cửa nhà và bên trong nhà ông Nguyễn Văn H3, Cơ quan điều tra đã thu giữ được một số dấu vết nghi máu dạng nhỏ giọt, văng bắn, phun tia, kích thước từ 0,5x0,2m đến 7,5x2,3m; 01 con dao bằng kim loại sáng màu, dài 48cm, bản rộng nhất 4,9cm, phần chuôi dài 10cm, một đầu nhọn, một lưỡi sắc, bề mặt có bám dính tạp chất màu nâu đỏ nghi máu; 01 dao dạng dao rựa bằng kim loại tối màu, dài 38,2cm, bản rộng nhất 7,3cm, một lưỡi sắc, đầu bằng, bề mặt bám dính tạp chất màu nâu đỏ nghi máu; 01 mũ lưỡi trai màu tím than, nhãn hiệu ADIDAS, bị đứt phần quai; 01 đồng hồ có dây màu xanh đứt dây, mặt đồng hồ vuông, bị vỡ rạn. Cùng ngày Đỗ Việt A1 giao nộp 01 thanh kiếm kim loại sáng màu dài 84,7cm, phần lưỡi kiếm dài 60,5cm, bản rộng nhất 4,3cm, mũi nhọn, 01 lưỡi sắc, cán kiếm bằng gỗ dài 21,9 cm, 02 đầu phần cán kiếm được bọc kim loại sáng màu dài 2,1cm và 01 áo chống nắng màu hồng, có mũ và 01 hộp bìa cát tông. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ 02 USB và 01 đầu thu camera nhãn hiệu HIKVISION bên trong có gắn ổ đĩa lưu giữ đoạn video ghi lại hình ảnh vụ việc xô xát; 01 điện thoại Iphone XS màu vàng của D; 01 điện thoại Iphone7 plus màu hồng của T1; 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda WaveS biển kiểm soát: 15H1- 276.34 của P.
- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 527/2020/TgT ngày 16/10/2020 và Bản kết luận giám định pháp y bổ sung về thương tích số 623/2020/TgT ngày 08/12/2020 của Trung tâm P1 kết luận: Phạm Hồng P bị nhiều vết thương vùng đầu, mặt, vai trái, thắt lưng, mông phải và các vết xây xước da vùng má trái, vai phải; vết xây xước da vùng cổ trái; vùng trán; vết thương khe ngón I, II bàn tay trái gây đứt cơ, đứt nhánh thần kinh giữa không tổn thương xương bàn ngón tay trái, tổn thương nhánh thần kinh giữa. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân là 29%. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc hoặc tương đối sắc tác động trực tiếp gây nên. Các vết bầm tím, xây xước da vùng cổ có đặc điểm do vật tày tác động trực tiếp gây nên.
- Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 328/2021/TgT ngày 04/8/2021 của Trung tâm P1 kết luận: Phạm Văn D bị 02 vết xước da mặt sau 1/3 cẳng tay trái sát cổ tay và mu bàn tay trái, kích thước nhỏ, để lại sẹo nhẵn, không ảnh hưởng đến chức năng. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 02%. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp gây nên theo hướng như vuông góc với bề mặt da nơi tổn thương.
- Tại Kết luận giám định sinh học số 19/2021/GĐSH ngày 31/3/2021 của Phòng K3 Công an thành phố H, kết luận: Có dấu vết máu Phạm Hồng P và anh Nguyễn Quốc Đ tại hiện trường; trên dao mũi nhọn có máu lẫn của Phạm Hồng P và Nguyễn Quốc Đ; trên dao mũi bằng có máu của Phạm Hồng P. - Cùng ngày 12/10/2020, Phạm Văn D và Phạm Văn T1 đến Công an huyện T đầu thú. Ngày 29/6/2021 Phạm Văn D có đơn yêu cầu khởi tố đối với Phạm Hồng P về hành vi gây thương tích cho D. - Về dân sự: Phạm Hồng P yêu cầu Phạm Văn D và Phạm Văn T1 bồi thường 120.000.000 đồng, bao gồm các chi phí viện phí, điều trị thương tích và tổn thất tinh thần. Phạm Văn D yêu cầu Phạm Hồng P bồi thường 4.000.000 đồng do đồng hồ bị hỏng và yêu cầu được bồi thường tiền bị tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật. Cho đến khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo Phạm Văn D đã bồi thường cho Phạm Hồng P 50.000.000 đồng; gia đình bị cáo Phạm Văn T1 đã bồi thường cho Phạm Hồng P 20.000.000 đồng.
- Cơ quan điều tra xác định Nguyễn Văn T4 có hành vi “gây rối trật tự công cộng”. Do T4 không có mặt tại địa phương nên Cơ quan điều tra đã quyết định truy nã, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 13/01/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã quyết định:
- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt: Bị cáo Phạm Văn D 14 (mười bốn) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2020.
- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 57 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T1 12 (mười hai) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2020.
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt: Bị cáo Phạm Hồng P 12 (mười hai) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án. Tiếp tục duy trì lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo cho đến khi bị cáo đi thi hành án phạt tù.
- Về bồi thường dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự 2015, Điều 584, Điều 585, Điều 591, Điều 357 Bộ luật Dân sự, xử:
- Đối trừ và buộc bị cáo Phạm Văn D phải bồi thường tiếp cho Phạm Hồng P 46.000.000 đồng (bốn mươi sáu triệu đồng).
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
- Ngày 14/01/2022, bị cáo Phạm Hồng P có đơn kháng cáo, đề nghị được hưởng án treo và tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn D. - Cùng ngày 19/01/2022, bị cáo Phạm Văn D và bị cáo Phạm Văn T1 cùng có đơn kháng cáo, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
- Các bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, khai báo thành khẩn và có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.
- Bị cáo Phạm Hồng P rút một phần kháng cáo về yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn D. - Gia đình bị cáo Phạm Văn D xuất trình thêm tài liệu thể hiện đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng toàn bộ số tiền bồi thường cho Phạm Hồng P, tiền án phí dân sự và hình sự theo quyết định của bản án sơ thẩm. Gia đình bị cáo T1 xuất trình tài liệu đã nộp án phí hình sự sơ thẩm tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội tham gia phiên tòa sau khi nêu lại nội dung, quyết định của bản án sơ thẩm đã phân tích về diễn biến hành vi, diễn biến tâm lý các bị cáo trong vụ án và có quan điểm:
+ Bị cáo Phạm Hồng P là người vô cớ gây sự, đánh bị cáo Phạm Văn D tại cầu T; khi D cùng T1, H2, L1 đến nhà P nói chuyện thì ngay tức khắc P đã nhẩy vào tấn công, đá, đạp D, khi được mọi người can ngăn P còn chạy vào nhà lấy tuýp sắt ra định đánh D nhưng lại được mọi người can ngăn kịp thời. Khi D, T1, H2, L1 về quán nước của bà Nguyễn Thị K2 ở khu vực cổng Công ty G, T1 đã mượn dao của T4 đưa cho D, D cất dao vào cốp xe máy định cùng T1 ra về thì P lại một mình đi xe máy đến, dừng xe cách chỗ D và T1 đứng khoảng 20m, đồng thời cầm theo một con dao (dạng dao rựa) chạy đến, nhằm về phía D vung dao chém, D dơ tay trái lên đỡ, thì bị trúng vào cổ tay có đeo đồng hồ làm đứt quai đeo của đồng hồ và làm D bị thương. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 328/2021/TgT ngày 04/8/2021 của Trung tâm P1 kết luận: “Phạm Văn D bị 02 vết xước da mặt sau 1/3 cẳng tay trái sát cổ tay và mu bàn tay trái, kích thước nhỏ, để lại sẹo nhẵn, không ảnh hưởng đến chức năng. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 02%. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp gây nên theo hướng như vuông góc với bề mặt da nơi tổn thương”. Như vậy, trong cả ba lần xô xát thì P đều là người chủ động tấn công trước, thể hiện tính hung hăng, côn đồ, bất chấp pháp luật, là nguyên nhân dẫn đến việc xảy ra vụ án; lẽ ra còn phải áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự với bị cáo, nhưng không có kháng cáo, kháng nghị theo hướng bất lợi cho bị cáo nên yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm lưu ý và rút kinh nghiệm. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hồng P về việc được hưởng án treo.
+ Sau khi bị Phạm Hồng P chém gây thương tích, Phạm Văn D mới lấy dao cất dưới yên xe máy đuổi theo và chém P nhiều nhát gây nên thương tích cho P 29%; Phạm Văn T1 cầm điếu cầy đuổi theo để hỗ trợ, giúp sức cho D nhưng không trực tiếp gây thương tích cho P. Hành vi của Phạm Hồng P là nguy hiểm cho xã hội, nên đã bị truy tố và xét xử và kết án về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo D và T1 về tội giết người với tình tiết định khung “côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là không chính xác.
Hai bị cáo D và T1 chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự, trong đó bị cáo D là người thực hành tích cực, bị cáo T1 là đồng phạm với vai trò giúp sức. Tại phiên tòa phúc thẩm, còn có các chứng cứ xác định bị cáo D đã thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ bồi thường, tiền án phí dân sự, hình sự sơ thẩm; bị cáo T1 đã nộp tiền án phí hình sự phúc thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của hai bị cáo để giảm nhẹ hình phạt: Xử phạt bị cáo D từ 09 đến 10 năm tù; xử phạt bị cáo T1 từ 7 đến 8 năm tù.
- Quan điểm của Luật sư Trần Hữu K bào chữa cho bị cáo Phạm Văn D: Sau khi phân tích nguyên nhân, điều kiện phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, xác định có tình tiết giảm nhẹ mới đó là đến phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã tự nguyện bòi thường toàn bộ thiệt hại cho bị hại, nộp xong toàn bộ án phí. Đồng tình và không tranh luận với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát về việc áp dụng khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên về hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử mức án khoan hồng, giảm nhẹ hơn mức hình phạt mà đại diện V iện kiểm sát đã đề nghị tại phiên tòa.
- Quan điểm của Luật sư Lê Bá C1 bào chữa cho bị cáo Phạm Văn D: Đồng tình với quan điểm của luật sư Trần Hữu K và bổ sung: Bị cáo Phạm Văn D phạm tội trong trường hợp bị hại liên tục có những hành vi trái pháp luật với bị cáo, gây thương tích cho bị cáo và bị hại đã bị xử phạt tù dẫn đến bị cáo D bị kích động tih thần nên mới phạm tội, thương tích của bị hại chỉ là 29%. Do vậy, đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo mức hình phạt khởi điểm quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là 07 năm tù cũng đủ tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
- Quan điểm của Luật sư Nguyễn Đức C2 và luật sư Nguyễn Đăng K1 (trong văn bản đề nghị xét xử vắng mặt) bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T1: Đồng tình với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và 02 luật sư bào chữa cho bị cáo D về việc Phạm Hồng P là người chủ động tấn công bị cáo D trong cả ba giai đoạn. Do vậy việc áp dụng khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự đối với bị cáo D và bị cáo T1 là chính xác. Bị cáo T1 là đồng phạm có vai trò giúp sức nhưng không gây thương tích cho bị hại, có nhân thân tốt và nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm quy định tịa khỏa 1 Điều 54 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo T1 dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự.
- Quan điểm của Luật sư Trịnh Thị D1 bào chữa cho bị cáo Phạm Hồng P: Trong vụ án này các bị cáo chỉ kháng cáo đề nghị giảm hình phạt nên luật sư không tranh luận về tội danh. Đại diện Viện kiểm sát và luật sư bòa chữa cho hai bị cáo D và T1 cho rằng bị cáo P là người châm ngòi, là nguyên nhân dẫn đến vụ án; tuy nhiên sự việc diễn ra từ cả hai phía, nên lỗi là lỗi hỗn hợp. Thương tích của D là 02%, P đã thừa nhận mình là người gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự là phù hợp. Bị cáo mới có thêm con nhỏ sinh năm 2022, có nhân thân tốt được Ban chấp hành đoàn xã và chính quyền địa phương xác nhận. Bị cáo còn là bị hại trong vụ án với thương tích 29%. Tòa án cấp sơ thẩm đã đối trừ số tiền bị cáo phải bồi thường cho bị hại (D) là 4.000.000 đồng nên đề nghị áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự với bị cáo. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo là phù hợp với 02 Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thể hiện sự hoan hồng và đủ tác dụng để giáo dục bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Các bị cáo Phạm Hồng P, Phạm Văn D, Phạm Văn T1 là chủ thể có quyền kháng cáo, việc kháng cáo đúng thủ tục, nội dung và trong thời hạn được quy định tại các Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự nên được giải quyết theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Luật sư Nguyễn Đăng K1 bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T1 vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có văn bản đề nghị xét xử vắng mặt và có quan điểm bào chữa cho bị cáo. Mặt khác, bị cáo Phạm Văn T1 đồng ý với sự vắng mặt của luật sư K1 và đã có mặt luật sư Nguyễn Đức C2 bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự để tiếp tục xét xử vụ án.
[1.3] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Phạm Hồng P rút một phần kháng cáo về yêu cầu tăng hình phạt đối với bị cáo Phạm Văn D. Xét thấy việc rút một phần kháng cáo của bị cáo Phạm Hồng p là tự nguyện, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự nên Hội đồng xét xử chấp nhận để đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo này.
[2] Về nội dung.
[2.1] Về tội danh: Tại phiên tòa, các bị cáo Phạm Văn D, Phạm Văn T1, Phạm Hồng P khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã nhận định. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp nhau, phù hợp với lời khai của từng bị cáo tại Cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm; phù hợp khách quan với vật chứng thu giữ, biên bản khám nghiệm hiện trường, các kết luận giám định thương tích, kết quả giám định sinh học, biên bản thực nghiệm điều tra và lời khai của người làm chứng, Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định:
Ngày 12/10/2020, Phạm Hồng P vô cớ gây sự với Phạm Văn D, sau đó cả hai đều chuẩn bị hung khí để đánh nhau. Bị cáo Phạm Hồng P đã sử dụng dao (dạng dao rựa) chém vào cổ tay bên trái, gây thương tích, làm bị cáo D bị tổn hại 02% sức khỏe. Sau đó, bị cáo D đã dùng dao (dạng dao mèo) đuổi theo chém liên tục, nhiều nhát vào vùng đầu, vai, lưng... là những vùng trọng yếu trên cơ thể của Phạm Hồng P; việc P không chết và bị tổn hại 29% sức khỏe nằm ngoài ý chí chủ quan của Phạm Văn D. Bị cáo Phạm Văn T1 mượn dao của Nguyễn Văn T4 đưa cho D để D thực hiện tội phạm, đồng thời cầm điếu cày cùng bị cáo D đuổi theo với mục đích để đánh bị cáo P. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án các bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1 về tội “Giết người” theo quy định tại Điều 123 Bộ luật Hình sự; bị cáo Phạm Hồng P về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng pháp luật.
[2.2] Xét về tình tiết định khung hình phạt đối với hai bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1: Trong vụ án này Phạm Hồng P là người vô cớ gây sự, tấn công bị cáo Phạm Văn D tại cầu T; khi D cùng T1, H2, L1 đến nhà P nói chuyện thì ngay tức khắc P đã nhẩy vào đá, đạp D, khi được mọi người can ngăn P còn chạy vào nhà lấy tuýp sắt ra định đánh D nhưng lại được mọi người ngăn cản kịp thời. Khi D, T1, H2, L1 về quán nước của bà Nguyễn Thị K2 ở khu vực cổng Công ty G, lúc này T1 mới mượn dao của T4 đưa cho D; đặc biệt, khi D đã rủ T1 ra về và đã cất dao dưới yên xe máy thì P lại mang theo một con dao (dạng dao rựa) đi xe máy đến, dừng xe cách chỗ D và T1 đứng khoảng 20m rồi cầm dao chạy đến lao vào chém D; D dơ tay trái lên đỡ, thì bị P chém trúng vào cổ tay trái làm đứt quai đeo của đồng hồ và bị thương tích. Diễn biến nêu trên đã được các cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm kết luật, phù hợp khách quan với Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 328/2021/TgT ngày 04/8/2021 của Trung tâm P1 xác định: “Phạm Văn D bị 02 vết xước da mặt sau 1/3 cẳng tay trái sát cổ tay và mu bàn tay trái, kích thước nhỏ, để lại sẹo nhẵn, không ảnh hưởng đến chức năng. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 02%. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp gây nên theo hướng như vuông góc với bề mặt da nơi tổn thương”; phù hợp với chính lời khai của bị cáo P tại phiên tòa phúc thẩm. Xuất phát từ việc bị P chém gây thương tích, nên bị cáo D bức xúc lấy dao đã cất dưới yên xe đuổi theo và chém P nhiều nhát gây nên thương tích cho P 29%; T1 cũng cầm điếu cầy đuổi theo để hỗ trợ, giúp sức cho D nhưng không trực tiếp gây thương tích cho P. Hành vi nêu trên của bị cáo P là nguy hiểm cho xã hội, nên đã bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án 12 tháng tù về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự. Tổng hợp diễn biến hành vi, diễn biến tâm lý của từng bị cáo, nguyên nhân, điều kiện và bối cảnh phát sinh tội phạm, Hội đồng xét xử nhận thấy việc bị cáo D thực hiện hành vi phạm tội không phải do vô cớ, không phải do mâu thuân nhỏ nhặt. Vì vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm kết án bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1 về tội giết người với tình tiết định khung “côn đồ” theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự là không chính xác. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và những người bào chữa cho hai bị cáo D, T1 xác định hành vi của hai bị cáo không thuộc trường hợp “có tính chất côn đồ”, hai bị cáo chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự là phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Phạm Văn D, Phạm Văn T1 về việc giảm nhẹ hình phạt.
Hành vi của các bị cáo Phạm Văn D, Phạm Văn T1 đã cố ý tước đoạt tính mạng của Phạm Hồng P thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự. Trong tội danh này bị cáo D và bị cáo T1 là đồng phạm theo quy định tại Điều 17 Bộ luật hình sự xong mang tính giản đơn, bột phát, không có sự tổ chức, bàn bạc, phân công thực hiện tội phạm giữa các đồng phạm; trong đó, bị cáo D giữ vai trò chính, là người thực hành tích cực, trực tiếp gây tổn hại sức khỏe của Phạm Hồng P 29%; bị cáo T1 là người chuẩn bị công cụ phạm tội, tiếp nhận ý chí và giúp sức về mặt tinh thần cho D trong việc thực hiện tội phạm.
Cả hai bị cáo đều có nhân thân tốt, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại các phiên tòa đều khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại; ngay trong ngày phạm tội đã đến cơ quan công an đầu thú; bị cáo T1 được bị hại Phạm Hồng P đề nghị giảm nhẹ hình phạt. Do vậy, cả hai bị cáo đều được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm s, b khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm có căn cứ xác định bị cáo D đã thực hiện xong toàn bộ nghĩa vụ bồi thường, tiền án phí dân sự; cả hai bị cáo cũng đã thực hiện xong nghĩa vụ về án phí hình sự sơ thẩm, thể hiện có ý thức chấp hành pháp luật. Mặt khác, như đã phân tích ở trên, do hai bị cáo Phạm Văn D, Phạm Văn T1 chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 07 năm đến 12 năm, bị hại là người có lỗi và đã bị kết án khi gây thương tích tổn hại sức khỏe cho bị cáo D 02% và bản thân bị hại cũng chỉ bị tổn hại về sức khỏe 29%. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của hai bị cáo Phạm Văn D, Phạm Văn T1, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và của người bào chữa cho hai bị cáo để giảm nhẹ hình phạt cho cả hai bị cáo.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo Phạm Hồng P đề nghị hưởng án treo:
Mặc dù bị cáo không có tiền án, tiền sự, gây thương tích cho Phạm Văn D với tỷ lệ tổn hại sức khỏe chỉ 02%, sau khi phạm tội đã khai báo thành khẩn, có thái độ ăn năn hối cải. Tuy nhiên, chuỗi những hành vi trái pháp luật mà bị cáo thực hiện một cách chủ động và cố ý của bị cáo như đã nêu tại phần nội dung vụ án và phân tích tại tiểu mục [2.2] phần “NHẬN ĐỊNH” của bản án này là rất nguy hiểm. Cụ thể: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo P đã thừa nhận mình là người tấn công trước trong cả ba lần. D2 chỉ bản thể hiện bị cáo Phạm Hồng P cao 176cm (BL 285), bị cáo Phạm Văn D cao 164cm (BL 309), quan sát tại phiên tòa cũng nhận thấy bị cáo P có thể hình cao lớn hơn so với bị cáo D nên hành vi của bị cáo P dùng dao rựa là hung khí nguy hiểm chủ động tấn công, chém bị cáo D theo hướng từ trên xuống dưới, từ phải sang trái như bị cáo đã thừa nhận tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp khách quan với việc bị cáo D bị hỏng đồng hồ và bị thương tích tại tay trái, như đã nêu trên có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của bị cáo D nếu bị cáo D không có phản xạ giơ tay đỡ kịp thời, thể hiện tính côn đồ, hung hãn và là nguyên nhân chính dẫn đến việc xảy ra vụ án như đại diện Viện kiểm sát đã nhận định. Việc Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” với bị cáo P là không đúng, lẽ ra phải áp dụng thêm điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự: “Có tính chất côn đồ” với bị cáo và xử phạt bị cáo mức hình phạt tù cao hơn mới chính xác. Do không có kháng cáo, kháng nghị tăng nặng trách nhiệm hình sự với bị cáo nên Hội đồng xét xử không áp dụng để làm bất lợi cho bị cáo; việc xem xét lại tội danh và hình phạt đối với bị cáo theo hướng tăng nặng có thể được cơ quan có thẩm quyền cấp trên xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và quan điểm của người bào chữa cho bị cáo về việc được hưởng án treo, cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội để giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo, có tác dụng phòng và chống tội phạm, giáo dục người khác ý thức tuân thủ pháp luật.
[5] Về trách nhiệm dân sự: Tòa án cấp sơ thẩm đã đối trừ thiệt hại chiếc đồng hồ do Phạm Hồng P chém làm hỏng của Phạm Văn D, còn Phạm Văn D phải có nghĩa vụ bồi thường tiếp cho Phạm Hồng P số tiền 46.000.000 đồng. Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường theo 02 biên lai thu tiền: Số AA/2021/0000578 ngày 13/10/2022 với số tiền 30.000.000 đồng và số AA/2021/0000678 ngày 14/10/2022 với số tiền 16.000.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng theo quyết định của bản án sơ thẩm. Bị hại Phạm Hồng P có quyền liên hệ với Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng để nhận khoản tiền bồi thường này.
[6] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bản án sơ thẩm quyết định bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1 mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng. Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1 đã thực hiện xong theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000398 ngày 26/8/2022 và Biên lai thu tiền AA/2021/0000403 ngày 20/6/2022.
[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Ghi nhận bị cáo Phạm Văn D đã thực hiện xong số tiền 2.300.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000576 ngày 13/10/2022.
[8] Về án phí hình sự phúc thẩm: Căn cứ các quy định tại: Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, điểm h, b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo, bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1 được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí; bị cáo Phạm Hồng P không được chấp nhận kháng cáo nên phải chịu án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1. Sửa quyết định về hình sự của bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 13/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đối với hai bị cáo như sau:
- Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 38, Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Phạm Văn D 08 (tám) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2020.
- Căn cứ khoản 2 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 57 Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Phạm Văn T1 07 (bẩy) năm tù về tội “Giết người”. Thời hạn tù tính từ ngày 12/10/2020.
2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Hồng P về việc hưởng án treo; giữ nguyên quyết định về hình sự của bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 13/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đối với bị cáo như sau:
- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015; xử phạt bị cáo Phạm Hồng P 12 (mười hai) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bắt đầu thi hành án. Tiếp tục duy trì lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo cho đến khi bị cáo đi thi hành án phạt tù.
3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị cáo Phạm Văn D đã thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường cho Phạm Hồng P số tiền 46.000.000 đồng theo quyết định của bản án sơ thẩm, thể hiện tại 02 biên lai thu tiền: Số AA/2021/0000578 ngày 13/10/2022 với số tiền 30.000.000 đồng và số AA/2021/0000678 ngày 14/10/2022 với số tiền 16.000.000 đồng tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Phạm Hồng P có quyền liên hệ với Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng để nhận khoản tiền bồi thường này.
4. Về án phí:
4.1 Án phí hình sự sơ thẩm: Ghi nhận bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1 đã thực hiện xong mỗi bị cáo 200.000 đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000398 ngày 26/8/2022 và Biên lai thu tiền AA/2021/0000403 ngày 20/6/2022.
4.2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bản án sơ thẩm quyết định bị cáo phải chịu 2.300.000 đồng. Hội đồng xét xử ghi nhận bị cáo Phạm Văn D đã thực hiện xong theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000576 ngày 13/10/2022.
4.3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị Phạm Hồng P phải chịu 200.000 đồng. Bị cáo Phạm Văn D và Phạm Văn T1 không phải chịu án phí.
5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.
Bản án 759/2022/HS-PT về tội giết người
Số hiệu: | 759/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/10/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về