Bản án về tội giết người số 567/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 567/2023/HS-PT NGÀY 21/08/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 21 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 309/2023/TLPT-HS ngày 05 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Thái Trung Lĩnh và bị cáo Danh Văn Bảo, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Thái Trung L, sinh ngày 15/7/2004 tại tỉnh Cà Mau; Nơi cư trú: Ấp Rau Dừa C, xã H, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Thái Thanh N và bà Nguyễn Thúy A; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị kết án; Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Thái Trung L và cũng là đại diện gia đình của bị cáo: Ông Thái Thanh N, sinh năm 1980 là cha của bị cáo Lĩnh; Trú ấp Rau Dừa C, xã H, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau - Có mặt;

2. Danh Văn B, sinh ngày 26/11/2003 tại tỉnh Cà Mau; Nơi cư trú: Ấp Hoàng Lân, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Danh Văn Hùng và bà Nguyễn Thị Phiếm; Chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa từng bị kết án; Bị tạm giam từ ngày 03/8/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Thái Trung L: Luật sư Phan Khánh D – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Cà Mau - Có mặt;

Người bào chữa chỉ định cho bị cáo Danh Văn B: Luật sư Ngô Ngọc T, Văn phòng luật sư Huỳnh Quốc thuộc Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau – Có mặt;

Người bị hại:

- Anh Trần Ngọc S, sinh năm 1998 (chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại Trần Ngọc S: Ông Trần Văn U, sinh năm 1961; Địa chỉ: Ấp N, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau - Vắng mặt;

- Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1999 (chết);

Người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Đức T: Bà Lương Thị B1, sinh năm 1964; Địa chỉ: Khóm 1, thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau - Vắng mặt;

Ngoài ra còn có 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo và không liên quan đến kháng cáo;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/3/2022, Trương Nhật L1, Thái Trung L, Danh Văn B, Trần Ngọc S, Nguyễn Đức T, Lâm Văn Đ, Nguyễn Lâm V, Bao Ngọc T1, Bao Ngọc H, Bao Hồng T2, Bao Ngọc Đ1 cùng nhậu tại nhà của ông Bao Văn A1 ở ấp Hoàng Lân, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau. Nhậu được một lúc thì H, T2, Đ1 ra về. Trong lúc nhậu, S lấy điện thoại di động ra mở nhạc lớn, nói chuyện chửi thề thì L1 và L kêu S tắt nhạc, nên S và T tức giận bỏ ra về, S điều khiển xe hiệu Winer, biển số 69E1-370.71 chở T và nẹt pô lớn chạy đi. Lúc này, L đứng dậy và nhìn B thì B hiểu là L rủ B chạy theo đánh T và S. B liền lên xe Vision, biển số 69E1-539.63 chở L chạy theo, đi được một đoạn thì L điều khiển xe chở B. Trên đường đi, B kêu L dừng xe, B xuống xe bẻ khúc cây tràm dài khoảng 01 mét đem theo. Khi đến gần Trạm Y tế xã Tân Hưng Đông thì đuổi kịp xe của S và T; B ngồi sau dùng cây đánh vào lưng T 01 cái làm S và T ngã xe, L dừng xe lại, B dùng cây đánh T, L dùng tay đánh S thì T và S bỏ chạy. Sau đó L và B quay về nhà ông A1 tiếp tục nhậu.

Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, T và S rủ thêm Lâm Vũ Thi, Trần Văn Tý quay lại nhà ông A1 với mục đích tìm đánh nhóm của L và B. T điều khiển xe chở S, Tý điều khiển xe Jupiter, biển số 69F7-8383 chở Thi chạy theo sau. Trên đường đi, T nhặt khúc tre dài khoảng 01 mét. Lúc này tại nhà ông A1 còn có: L1, L, B, T1, V, Đ đang ngồi nhậu. Nghe tiếng xe dừng phía trước lộ thì L biết T và S quay lại. L nói: “Nó tới rồi kìa” đồng thời đi ra sau bếp lấy 02 cây dao, loại dao phay. L cầm 01 cây (dài 40,5 cm, cán gỗ, lưỡi kim loại dài 27 cm) còn 01 cây (dài 41,5 cm, cán gỗ, lưỡi kim loại dài 27 cm) đưa cho B để đưa lại cho L1, nhưng L1 không lấy mà L1 lấy con dao Thái Lan (dài 26 cm, cán nhựa dài 11,5 cm, lưỡi kim loại dài 14,5 cm, rộng 3,5 cm) đang để tại bàn nhậu, giắt vào lưng quần và nói: “Anh có dao rồi”, nên B cầm con dao L đã đưa để làm hung khí.

Khi nghe tiếng xe đậu trước cửa nhà, T1 đi ra hỏi T: “Anh làm gì kỳ vậy anh T?”. Lúc này, L1 từ trong nhà đi ra phía T1 và T đang đứng thì bị T dùng cây đánh, S dùng nón bảo hiểm đánh, L1 bỏ chạy thì T và S đuổi theo tiếp tục đánh L1. Cùng lúc này, L từ nhà sau cầm dao chạy đến la lên: “Anh L1 bị đánh rồi” và dùng dao xông đến chém nhiều nhát trúng vào người của T và S; L1 rút dao ra đâm vào người T 02 nhát (không xác định được trúng vị trí nào), L1 tiếp tục đâm vào ngực S 01 nhát, T và S bỏ chạy thì L1, L và B cầm dao đuổi theo.

Trên đường đuổi theo T và S thì gặp Thi đang đứng trên lộ, L dùng dao chém Thi 03 - 04 nhát, Thi đưa tay lên đỡ và la lên: “Tôi vô can mà làm gì chém tôi ” nên L dừng chém và tiếp tục đuổi theo S và T.

S chạy được khoảng 36 mét thì nhảy xuống cống xổ vuông của ông Tuấn, sau đó leo lên bờ thì bị L dùng dao chém nhiều nhát trúng vào phía sau lưng. Lúc này, B ném bỏ dao xuống đường và chạy đến kéo L lại, L ném bỏ dao tại cống. S leo lên khỏi cống đi được khoảng 09 mét thì gục chết. T bỏ chạy khoảng 200 mét thì té nằm cạnh cống xổ vuông và chết.

L1, L, B quay lại nhà ông A1, cùng với Đ và V điều khiển xe chạy về nhà bà Nguyễn Thị Kính là mợ của Đ ở ấp Tân Tạo và bỏ xe tại đây. Đ kêu Taxi chở tất cả về nhà chị ruột của Đ là Lâm Thị Hoài ở thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời rồi ngủ tại đây. Đến khoảng 5 giờ 30 phút ngày 10/3/2022 thì biết T và S chết nên chị Hoài kêu đi đầu thú thì L1 và L đến Công an thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời đầu thú.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 69/KL-KTHS ngày 14/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cà Mau đối với Trần Ngọc S, kết luận: Ngực trái có vết thương rách da, há miệng, bờ mép sắc gọn; Bầm tụ máu xung quanh vết thương ngực trái; Đứt sụn sườn III-IV ngực trái; Khoang ngực trái chứa khoảng 2000 ml máu cục và máu loãng; Thủng thùy dưới phổi trái; Khoang tim chứa khoảng 150 ml máu cục, máu loãng; Thủng cơ tim ở vùng mõn tim xuyên thấu. Nguyên Nhân chết: Sốc mất máu cấp do vết thương xuyên thủng tim.

Kết luận giám định pháp y tử thi số 70/KL-KTHS ngày 14/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Cà Mau đối với Nguyễn Đức T, kết luận: Ở ngực phải dưới xương đòn có vết thương há miệng, bờ mép sắc gọn; Đứt động mạch dưới đòn phải. Nguyên nhân chết: Sốc mất máu cấp do vết thương đứt động mạch dưới đòn phải.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 114/TgT-22 ngày 27/6/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Cà Mau đối với Lâm Vũ Thi, kết luận: Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 6%.

Tại Bản cáo trạng số 11/CT-VKS-P1 ngày 09/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau đã truy tố bị cáo Thái Trung L và bị cáo Danh Văn B đều về tội “Giết người” theo các điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và còn truy tố Trương Nhật L1;

Đối với hành vi gây thương tích cho Lâm Vũ Thi 6%, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra quyết định đình chỉ điều tra do Lâm Vũ Thi đã rút yêu cầu xử lý hình sự;

Đối với Lâm Văn Đ, Nguyễn Lâm V không bàn bạc, không tham gia đánh nhau nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Thái Trung L, Danh Văn B phạm tội “Giết người” Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52, Điều 91 và 101 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Thái Trung L 17 (mười bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ ngày 11/3/2022.

Căn cứ điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Danh Văn B 15 (mười lăm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt giam ngày 03/8/2022.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh và hình phạt đối với Trương Nhật L1; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm; tuyên về nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Cùng ngày 30/3/2023, bị cáo Thái Trung L và Danh Văn B có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay:

Bị cáo Thái Trung L khai nhận bị cáo có thực hiện hành vi như Bản án sơ thẩm đã xử là không oan, nhưng phạt bị cáo 17 năm tù là quá nặng, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Thái Trung L đề nghị xem xét bị cáo L có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tác động gia đình bồi thường thiệt hại; ông nội, bà nội, ông ngoại của bị cáo là người có công với nước; bị cáo đầu thú; người bị hại cũng có một phần lỗi; bị cáo có quá trình nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự; khi phạm tội bị cáo là người chưa thành niên; nhận thức hạn chế, còn trẻ, có khả năng cải tạo thành người có ích cho xã hội. Đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo Danh Văn B khai nhận bị cáo có thực hiện hành vi như Bản án sơ thẩm đã xử là không oan, nhưng phạt bị cáo 15 năm tù là quá nặng, xin được giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Danh Văn B đề nghị xem xét các bị cáo và bị hại đều đã có uống rượu, không kiểm soát được hành động của bản thân; cái chết của bị hại chủ yếu là do bị cáo L1 và bị cáo L gây ra, còn bị cáo B chỉ là đồng phạm giúp sức. Bị cáo có rất nhiều tình tiết giảm nhẹ: Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đồng ý bồi thường thiệt hại; ông ngoại của bị cáo là thương binh hạng 3/4; người bị hại cũng có một phần lỗi; bị cáo có quá trình nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, nhận thức hạn chế; hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đề nghị chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh có ý kiến: Người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các đơn kháng cáo đều hợp lệ, đủ điều kiện giải quyết phúc thẩm; Về nội dung Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Thái Trung L và Danh Văn B phạm tội“Giết người” theo điểm a, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự và quyết định hình phạt đối với các bị cáo là tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên đề nghị bác kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Đơn kháng cáo của bị cáo Thái Trung L và đơn kháng cáo của bị cáo Danh Văn B đều đảm bảo hình thức, thời hạn, đủ điều kiện giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

Biên bản tiếp nhận người phạm tội ra đầu thú (bút lục số 149) thể hiện bị cáo Thái Trung L đầu thú lúc 07 giờ 20 phút ngày 10/3/2022 và Công an thị trấn Sông Đốc bàn giao bị cáo cho Cơ quan cảnh sát điều tra lúc 13 giờ 20 phút cùng ngày 10/3/2022 (bút lục số 154) tiếp tục tạm giam bị cáo. Do đó, cần điều chỉnh bị cáo Thái Trung L bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/3/2022.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp với Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản thu giữ vật chứng, các Bản kết luận giám định, cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để xác định: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 09/3/2022, trong khi cùng nhậu, Trần Ngọc S mở nhạc trong thoại di động lớn, nói chuyện thì chửi thề, nên Trương Nhật L1 và Thái Trung L kêu tắt nhạc thì S và Nguyễn Đức T tức giận lên xe nẹt pô bỏ về. Thái Trung L điều khiển xe chở Danh Văn B đuổi theo, B cầm cây đánh vào lưng T làm S và T ngã xe thì L dừng xe lại, B dùng cây đánh T, L dùng tay đánh S thì T và S bỏ chạy, L và B quay lại tiếp tục nhậu, đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 09/3/2022, S và T rủ thêm Lâm Vũ Thi và Trần Văn Tý quay lại nơi nhậu, S cầm nón bảo hiểm cùng với T cầm cây đuổi đánh Trương Nhật L1 thì L1 rút dao đâm trúng T và S nhiều nhát. S và T bỏ chạy thì Thái Trung L dùng dao chém nhiều nhát trúng người của S và T thì S và T bỏ chạy. L1, L và Danh Văn B đều có cầm dao đuổi theo, S nhảy xuống cống vuông, leo lên thì bị L chém nhiều nhát vào lưng, B kéo L ra, S đi được khoảng 09 mét thì gục chết. T chạy khoảng 200 mét thì té xuống chết. Do đó, Bản án sơ thẩm tuyên bố các bị cáo:

Thái Trung L và Danh Văn B phạm tội “Giết người” quy định tại các điểm a, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo Thái Trung L và bị cáo Danh Văn B có tính chất côn đồ, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt mà các bị cáo sử dụng dao, cây gỗ là hung khí nguy hiểm để cùng giúp sức cho Trương Nhật L1 đâm tử vong hai người bị hại, hậu quả làm chết đến 02 mạng người. Hành vi ấy là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng của nhiều người, nên cần phải xử phạt nghiêm mới đảm bảo tác dụng giáo dục riêng và răn đe phòng ngừa chung.

[3.1] Bị cáo Thái Trung L cầm dao chém trúng S và T, khi S bỏ chạy, nhảy xuống cống vuông, leo trở lên bờ thì L tiếp tục dùng dao chém trúng lưng của S, chứng tỏ bị cáo cố tình thực hiện tội phạm đến cùng. Bản án sơ thẩm đã xem xét bị cáo phạm tội với 02 tình tiết định khung tăng nặng là giết nhiều người và phạm tội có tính chất côn đồ, đồng thời có tình tiết tăng nặng là cố tình phạm tội đến cùng và cũng đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tác động gia đình nộp tiền để bồi thường thiệt hại, đầu thú, ông nội của bị cáo là thương binh, bà nội của bị cáo là Bà Mẹ Việt Nam anh hùng, ông ngoại của bị cáo là người có công với nước, phạm tội khi chưa thành niên, nguyên nhân cũng do các bị hại dùng cây tre và nón bảo hiểm đánh các bị cáo trước, nên đã xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và lời bào chữa của luật sư xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[3.2] Khi thấy S và T chạy xe ra về nhưng nẹt pô lớn tiếng thì bị cáo Danh Văn B cùng với bị cáo L chạy xe đuổi theo, B dùng cây đánh vào lưng T làm S và T ngã xe. Khi S và T quay lại thì B cầm dao để làm hung khí đánh nhau, khi S và T bị L1 đâm, L chém bỏ chạy thì B cũng cầm dao đuổi theo, hành vi của bị cáo B đã giúp sức rất tích cực cho bị cáo L1 và bị cáo L thực hiện hành vi phạm tội. Bản án sơ thẩm đã xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, ông ngoại của bị cáo là thương binh hạng 3/4, nguyên nhân cũng do các bị hại dùng cây tre và nón bảo hiểm đánh các bị cáo trước, nên đã xử phạt bị cáo 15 năm tù là tương xứng, phù hợp với vai trò của bị cáo trong vụ án. Tại phiên tòa phúc thẩm không có tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo và lời bào chữa của luật sư xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

[4] Từ các phân tích trên, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là phù hợp.

[5] Các bị cáo không được chấp nhận kháng cáo nên đều phải chịu án phí hình sự phúc thẩm;

[6] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với Trương Nhật L1; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Thái Trung L và không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Danh Văn B; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 22/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về hình phạt đối với bị cáo Thái Trung L và bị cáo Danh Văn B;

Áp dụng các điểm a, n khoản 1 Điều 123; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e khoản 1 Điều 52; Các điều: 17, 58, 91, 101 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Thái Trung L;

Áp dụng các điểm a, n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, 38, 58 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Danh Văn B;

Tuyên bố bị cáo Thái Trung L và bị cáo Danh Văn B phạm tội “Giết người”;

2.1. Xử phạt bị cáo Thái Trung L 17 (Mười bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 10/3/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án;

2.2. Xử phạt bị cáo Danh Văn B 15 (Mười lăm) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 03/8/2022. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án;

3. Mỗi bị cáo: Thái Trung L và Danh Văn B đều phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng)/bị cáo.

4. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm về tội danh và hình phạt đối với Trương Nhật L1; về trách nhiệm dân sự; về xử lý vật chứng; về án phí hình sự sơ thẩm, án phí dân sự sơ thẩm, không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 567/2023/HS-PT

Số hiệu:567/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;