TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 44/2024/HS-ST NGÀY 25/07/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 25 tháng 7 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 4 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 35/2023/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 5 năm 2024, Thông báo dời ngày xét xử sơ thẩm số: 115/2024/TB-HS ngày 10 tháng 7 năm 2024 đối với bị cáo:
Đào Th T, sinh ngày 01/11/1967 tại tỉnh Tiền Giang; nơi cư trú: Số 35/1A, tổ 10, khóm Đ, phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: V Nam; đảng, đoàn: Không; con ông Đào Tô Hà và bà Hà Thị Dung; vợ là Trần Thị Tr, có 02 người con;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/9/2023 cho đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh An Giang (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Ngọc Th - Văn phòng luật sư H thuộc Đoàn luật sư tỉnh An Giang; địa chỉ: Số 1058, đường Trần Hưng Đạo, tổ 01, khóm Bình Long 4, phường Mỹ Bình, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (có mặt).
Bị hại: Ông Trần Phước Hi, sinh năm 05/6/1983; nơi cư trú: Số 35/1, tổ 10, khóm Đ, phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị Tr, sinh năm 1976; nơi cư trú: Số 35/1A, tổ 10, khóm Đ, phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang (vợ bị cáo Tu có mặt).
Người làm chứng: Nguyễn Th S, sinh năm 1988; Trần Quốc V, sinh năm 1980; Trần Văn T, sinh năm 1959 (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 14 giờ ngày 30/4/2023, Đào Th Tu và Trần Văn T (chú vợ của Tu) tổ chức uống bia tại nhà của Tu tại số 35/1A, tổ 10, khóm Đ, phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Khoảng 15 phút sau, Trần Phước Hi (em vợ của Tu, cháu của T) đến nhà của Tu để hát karaoke thì giữa Hi và T xảy ra cự cãi nhau, Tu can ngăn thì Hi cự cãi với Tu. Hi về nhà gần đó lấy cây búa (loại dùng để chẻ củi, cán bằng gỗ dài 37cm, lưỡi bằng kim loại) đến trước nhà của Tu quơ qua, quơ lại. Cùng lúc này, Tu vào nhà bếp lấy 02 cây dao cầm trên 02 tay, tay trái cầm cây dao dài 20,5cm; tay phải cầm cây dao dài 23,5cm đi ra trước nhà đánh nhau với Hi. Lúc này, Tu đứng đối diện với Hi cách Hi khoảng 01m, Tu cầm 02 cây dao trên 02 tay chém nhiều nhát vào người Hi, Hi cầm búa đỡ và đi lùi lại khoảng 03m, Tu bị rớt 01 cây dao cầm trên tay phải, còn 01 cây dao Tu cầm trên tay trái chém nhiều nhát trúng vào vùng cổ phải và vùng vai phải của Hi; Tu tiếp tục cầm dao trên tay trái đâm 01 nhát trúng vào vùng bụng của Hi; Hi bỏ cây búa và dùng 02 tay ôm bụng. Lúc này, Nguyễn Th S, Trần Quốc V gần đó đưa Hi đến Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang cấp cứu và điều trị, đến ngày 08/5/2023, Hi ra viện. Sau khi sự việc xảy ra, Tu ném bỏ cây dao trước nhà rồi đến Công an phường M đầu thú.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 cây dao bằng kim loại dài 23,5cm (cán dài 12,5cm, lưỡi dài 11cm); 01 cây dao dài 20,5cm (cán bằng nhựa dài 11,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 09cm); 01 cây búa cán bằng gỗ dài 37cm, lưỡi bằng kim loại, kích thước (16,5 x 7,5)cm.
Tại Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số 469/23/KLTTCT-TTPY ngày 09/7/2023 và Công văn số 53/TLo-TTPY ngày 12/11/20223 của Trung tâm pháp y tỉnh An Giang đối với Trần Phước Hi, sinh năm 1983:
Các kết quả chính: Sẹo vùng cổ phải nằm xiên kích thước (03 x 0,1)cm, sẹo lõm, hồng, bờ sắc gọn: tỷ lệ là 02%, do vật sắc gây nên; Sẹo vùng vai phải nằm xiên kích thước (04 x 0,3)cm, sẹo lồi, hồng, bờ sắc gọn, góc trên tù, góc dưới nhọn: Tỷ lệ là 02%, do vật sắc nhọn gây nên; Sẹo vết thương trùng vết mổ đường trắng giữa trên dưới rốn kích thước (16,5 x 0,4)cm, hình chữ S, sẹo hồng, lồi: Gây thấu bụng: đứt động mạch vị mạc nối phải, rách thanh mạc hang vị, rách thanh mạc hồi tràng, rách thanh mạc hành tá tràng, rách nhu mô tụy vùng mỏm móc. Đã phẫu thuật khâu cầm máu động mạch vị mạc nối phải, khâu thanh mạc hang vị, hồi tràng, hành tá tràng, khâu lại nhu mô tụy (02 sẹo dẫn lưu vùng hông phải: vết thứ nhất kích thước (1,5 x 0,5)cm, vết thứ hai kích thước (02 x 0,3)cm. 01 vết sẹo dẫn lưu vùng hông trái kích thước (02 x 0,4)cm, tỷ lệ là 46% (Bốn mươi sáu phần trăm), do vật sắc nhọn gây nên. Kết luận: tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do tất cả thương tích gây nên của Trần Phước Hi tại thời điểm giám định là 48%.
Với các thương tích của Trần Phước Hi, nếu không được cấp cứu kịp thời sẽ nguy hiểm đến tính mạng.
Về trách nhiệm dân sự: Bà Tr là vợ của bị cáo Tu đã chi trả tiền chi phí điều trị thương tích cho bị hại Hi tổng cộng 30.000.000 đồng.
Tại Cáo trạng số: 44/CT-VKS-P2 ngày 23/4/2024, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang đã truy tố Đào Th Tu về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo Đào Th Tu khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.
Tại phiên tòa, bị cáo Đào Th Tu vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Bị hại Hi xác định đã nhận được 30.000.000 đồng tiền bồi thường chi phí điều trị thương tích nên không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là bà Trần Thị Tr (vợ của bị cáo) xác nhận: số tiền 30.000.000 đồng là do gia đình tự nguyện bồi thường, nguồn tiền là do bà Tr tích cóp và làm thuê mướn mà có. Nay không yêu cầu bị cáo Hi phải bồi hoàn.
Các người làm chứng đều khai phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên.
Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 15, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đào Th Tu từ 12 đến 14 năm tù. Về trách nhiệm dân sự, gia đình bị cáo đã thực hiện bồi thường xong và phia bị hại cũng không có yêu cầu gì thêm nên không đề cập xem xét; Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng đã thu giữ.
Người bào chữa của bị cáo Tu đồng ý với quan điểm của Viện kiểm sát về việc truy tố bị cáo Đào Th Tu về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo dưới mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị.
Bị cáo Tu nhất trí với bản luận cứ bào chữa nêu trên của người bào chữa, đồng thời không bào chữa bổ sung gì khác. Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Trong phần đối đáp, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang vẫn giữ nguyên quan điểm như đã đề nghị tại bản luận tội nêu trên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét và quyết định theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 14 giờ ngày 30/4/2023, tại nhà ở của Đào Th Tu thuộc số 35/1A, tổ 10, khóm Đ, phường M, thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang. Tu đã có hành vi dùng dao chém nhiều nhát trúng vào vùng cổ phải, vai phải và đâm 01 nhát trúng vào vùng bụng nhằm tước đoạt mạng sống của Trần Phước Hi. Hậu quả làm ông Hi thương tích với tỷ lệ thương tật 48%, không chết là do được cứu chữa kịp thời.
Hành vi nêu trên của bị cáo Tu đã phạm tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 123 của Bộ luật Hình sự. Chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt, bị cáo đã có hành vi dùng hung khí nguy hiểm là dao sắc nhọn đâm liên tiếp nhiều nhát vào các vùng trọng yếu trên cơ thể của bị hại, do đó hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp “Có tính chất côn đồ”, theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng của con người, đến quyền tự do thân thể của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn cho xã hội, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình. Cáo trạng truy tố và luận tội của Vị đại diện Viện kiểm sát là hoàn toàn có căn cứ.
[4] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Bị cáo được xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, trước khi phạm tội là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự. Nhưng hành vi được thực hiện với lỗi cố ý; động cơ, mục đích của tội phạm là dùng hung khí nguy hiểm nhằm tước bỏ tính mạng của người khác; tội phạm được thực hiện một cách quyết liệt, thể hiện tính côn đồ hung hãn đối với chính người thân của mình. Hành vi của bị cáo thể hiện tính xem thường pháp luật và quyền được sống của người khác. Do đó, cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, mới có tác dụng răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.
Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi thực hiện hành vi, bị cáo đã đến cơ quan công an đầu thu; tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, đã bồi thường thiệt hại cho bị hại và thực sự ăn năn hối cải; hoàn cảnh gia đình khó khăn, lần đầu phạm tội; bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, việc áp dụng hình phạt chính là phạt tù có thời hạn đã nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm. Xét thấy, sự thỏa thuận của các bên là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Về vật chứng: Đối với 01 cây dao bằng kim loại dài 23,5cm (cán dài 12,5cm, lưỡi dài 11cm); 01 cây dao dài 20,5cm (cán bằng nhựa dài 11,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 09cm); 01 cây búa cán bằng gỗ dài 37cm, lưỡi bằng kim loại, kích thước (16,5 x 7,5) cm. Xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy.
[8] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Đào Th Tu phạm tội “Giết người”.
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 15; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017): Xử phạt bị cáo Đào Th Tu 12 (mười hai) năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 28/9/2023 (hai mươi tám tháng chín năm hai nghìn không trăm hai mươi ba).
Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 01 cây dao dài 20,5cm, cán bằng nhựa màu đen, lười bằng kim loại màu trắng, mùi nhọn (đã qua sử dụng); 01 cây dao dài 23,5cm, cán và lưỡi bằng kim loại màu trắng, mũi nhọn, (đã qua sử dụng); 01 cây búa cán bằng gỗ dài 37cm, lưỡi bằng kim loại, kích thước (16,5 x 7,5)cm, (đã qua sử dụng). (Đặc điểm vật chứng như Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 26/4/2024 giữa Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh An Giang với Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang).
Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: bị cáo Đào Th Tu phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn) đồng.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội giết người số 44/2024/HS-ST
Số hiệu: | 44/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân An Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về