TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 43/2024/HS-ST NGÀY 24/04/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI
Ngày 24/4/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 38/2024/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 85/2024/QĐXXST-HS ngày 12/4/2024 đối với bị cáo:
Yin, sinh ngày 01/01/1990. Nơi thường trú và nơi ở trước khi bị bắt: Thôn N, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Nghề nghiệp: Làm nông. Giới tính: Nam. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Gia Rai; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 1/12. Cha tên T (đã chết), mẹ tên B, sinh năm: 1962; Vợ: Rơ Lan Nhet, sinh năm: 1985 (không đăng ký kết hôn), có 1 con sinh năm 2019. Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo ra đầu thú ngày 06/9/2023, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh G. Có mặt.
* Người bào chữa cho bị cáo Y: Ông Đặng Ngọc B1 - Luật sư của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh G. Có mặt.
* Bị hại: Anh Y T1, sinh năm: 1993; địa chỉ: Thôn A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Bà B, sinh năm 1962; địa chỉ: Thôn N, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Anh A Y1, sinh năm 1997; địa chỉ: Thôn A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
* Người làm chứng:
- Chị A Y2, sinh năm 1998; địa chỉ: Thôn A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
- Chị H, sinh năm 1980; địa chỉ: Thôn A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
- Anh M, sinh năm 1973; địa chỉ: Thôn A, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.
Người phiên dịch: Bà N H’hyan. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1. Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ ngày 05/9/2023, Y tham gia uống rượu cùng với H (sinh năm 1980), M (sinh năm 1973), P (sinh năm 1985), Y T1, A (sinh năm 1997), A1 (sinh năm 1998), B2 (sinh năm 1982) cùng trú tại thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai tại nhà của anh H. Trong khi uống rượu, H, Y và A1 thay nhau mở điện thoại di động của mình để kết nối với loa cầm tay của A1 mang đến để mọi người cùng nghe nhạc, hát karaoke. Khoảng 13 giờ cùng ngày, Y đi về nhà nhưng để quên điện thoại nên quay lại nhà H tìm, Y hỏi A1 và những người đang uống rượu thì mọi người đều trả lời không biết điện thoại của Y ở đâu, Y bực tức, đe dọa: “Để tao về nhà lấy rựa chặt hết tụi mày luôn” rồi đi về nhà. Khi về đến nhà Y gặp mẹ là bà B, Y nói bà B đi sang nhà H đòi lại điện thoại. Bà B đi qua nhà H hỏi điện thoại của Y nhưng mọi người cũng nói không biết nên bà B đi về nhà thì Y tiếp tục nói bà B đi qua nhà H đòi điện thoại cho Y. Bà B tiếp tục đi qua nhà H, còn Y đi ra đồng củi ở cạnh bếp lấy 01 con dao rựa (dài 39cm, cán dao bị gãy chỉ còn một phần cán dao, lưỡi dao bằng kim loại dài 26,3cm, bản dao chỗ rộng nhất 05cm, một cạnh sắc) đi theo qua nhà H. Khi đến nhà H, Y đi lại vị trí A đang ngồi trong phòng khách, quay lưng ra phía cửa và rồi dùng dao rựa đang cầm trên tay phải chém một phát từ phải qua trái vào vai phải của A, A vùng dậy bỏ chạy ra hè nhà nhưng do say rượu và bị thương nên A bị choáng, tự ngã sấp xuống hè nhà, bị thương ở trán. Thấy vậy, Y T1 đi ra nói: "Đừng có chém người ta như vậy" thì Y nói: "Mày muốn không? Mày muốn không?" rồi xông vào đứng đối diện với Y T1 rồi dùng tay phải cầm rựa chém 01 nhát từ trên xuống dưới vào vùng đỉnh thái dương trước trái của Y T1 làm Y T1 ngã gục xuống hè nhà. Lúc này, bà B và chị A1 liền xông vào can ngăn, đẩy Y ra nên Y bỏ đi ra đường, ném con dao vào vườn chanh dây đối diện nhà H rồi đi lên nhà rẫy ngủ. Đến ngày 06/9/2023, Y đã đến Công an thị trấn Đ, huyện Đ để đầu thú và khai báo về hành vi phạm tội của mình.
Sau khi bị Y dùng dao chém, A Y1 và Y T1 được đưa đến Trung tâm y tế huyện Đ cấp cứu, sau đó được chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh G điều trị, đến ngày 06/9/2023 thì anh A Y1 ra viện và ngày 09/9/2023 thì anh Y T1 ra viện.
Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: Hiện trường xảy ra vụ án tại nhà bà H thuộc thôn N, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Gia Lai.
* Tại giấy chứng nhận thương tích số 546/CN ngày 14/9/2023 của Bệnh viện Đa khoa tỉnh G đối với Y T1: Vào viện: 06/9/2023, ra viện: 09/9/2023, tình trạng thương tích lúc vào viện: Vết thương thái dương trái kích thước #5cm đang băng ép, sâu lộ sọ.
* Tại Bản kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 486/KLTTCT-TTPY ngày 15/9/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh G kết luận thương tích của Y T1:
- Các kết quả chính: 01 vết thương phần mềm nằm xiên vùng đỉnh thái dương trước trái.
- Kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Y T1 tại thời điểm giám định là 2% (Hai phần trăm).
- Cơ chế hình thành vết thương: Do sự tác động trực tiếp.
- Vật gây thương tích: Phù hợp với sự tác động của vật sắc có cạnh bén.
Do vậy, 01 con dao rựa được CQĐT Công an huyện Đ trưng cầu là vật phù hợp có thể gây ra thương tích nêu trên.
* Tại Bản kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số: 485/22/TgT, ngày 15/9/2023, Trung tâm Pháp y tỉnh G kết luận thương tích của A Y1:
- Các kết quả chính: 01 vết thương phần mềm nằm ngang bờ sau cầu vai phải+Vết xước da hai đầu vết thương: 2%; 01 vết thương phần mềm vùng trán phải: 6%.
- Kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của A Y1 tại thời điểm giám định là 8% (Tám phần trăm).
- Cơ chế hình thành vết thương: Do sự tác động trực tiếp.
- Vật gây thương tích:
+ Đối với thương tích vết thương phần mềm nằm ngang bờ sau cầu vai phải + Vết xước da hai đầu vết thương phù hợp với sự tác động của vật sắc có cạnh bén. Do vậy, 01 con dao rựa được CQĐT Công an huyện Đ trưng cầu là vật phù hợp có thể gây ra thương tích nêu trên.
+ Đối với thương tích sưng nề vùng trán phải phù hợp với sự tác động va đập với vật tày.
* Tại Bản kết luận giám định số 1075/KL-KTHS ngày 18/12/2023 của Phòng K Công an tỉnh G kết luận:
- Trên con dao (dao rựa) dài 39cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 26,3cm, mũi bằng, phần rộng nhất 05cm, lưỡi dao dính đất, cán dao bị gãy (Mẫu ký hiệu A1) trong bì công văn ghi "Con dao của Y" niêm phong gửi giám định: Có máu người, do lượng mẫu ít nên không xác định được nhóm máu hệ ABO.
- Trên áo sơ mi ngắn tay màu trắng đen, kích thước (58x41)cm (Mẫu ký hiệu A2) trong bì công văn ghi "Áo sơ mi" niêm phong gửi giám định: có máu người, nhóm máu A.
- Trên khăn vải màu xanh, kích thước (94x44)cm (Mẫu ký hiệu A3) trong bì công văn ghi "Khăn vải màu xanh" niêm phong gửi giám định: có máu người, nhóm máu A.
- Trên áo thun không có tay áo, kích thước (69x40)cm (Mẫu ký hiệu A4) trong bì công văn ghi "Áo thun màu đỏ" niêm phong gửi giám định: có máu người, nhóm máu A.
- Chất màu nâu nghi máu thấm trên cục bông (Mẫu ký hiệu A5) trong bì công văn ghi "Mẫu chất màu nâu đỏ thu tại vị trí số 3" niêm phong gửi giám định: có máu người, nhóm máu A.
- Chất màu nâu nghi máu thấm trên cục bông (Mẫu ký hiệu A6) trong bì công văn ghi "Mẫu chất màu nâu đỏ thu tại vị trí số 1" niêm phong gửi giám định: có máu người, nhóm máu A.
* Tại Phiếu xét nghiệm sinh hóa ngày 05/12/2023 của Trung tâm y tế huyện Đ xác định Y T1 có nhóm máu A, A Y1 nhóm máu O.
Ngày 16/10/2023, Cơ quan điều tra đã tổ chức thực nghiệm điều tra để kiểm tra, đánh giá hành vi bị can dùng dao rựa chém vào lưng anh A Y1 và chém vào đầu anh Y T1. Kết quả thực nghiệm điều tra phù hợp với thương tích của bị hại, lời khai bị can, lời khai của bị hại, lời khai người làm chứng và kết quả điều tra vụ án.
* Vật chứng của vụ án:
- 01 (Một) con dao rựa dài 39cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 26,3cm, mũi bằng, phần rộng nhất 05cm, lưỡi dao dính đất, cán dao bị gãy.
- 01 (Một) áo sơ mi ngắn tay màu trắng đen, kích thước (58x41)cm.
- 01 (Một) khăn vải màu xanh, kích thước (94x44)cm.
- 01 (Một) áo thun không có tay áo, kích thước (69x40)cm.
- 02 (Hai) cục bông thấm chất màu nâu nghi máu.
* Về trách nhiệm dân sự:
Sau khi sự việc xảy ra, ngày 05/12/2023 bà B (mẹ của bị cáo Y) đã bồi thường cho anh Y T1 số tiền 4.380.000đ (Bốn triệu, ba trăm tám mươi nghìn đồng) và anh A số tiền 1.700.000đ (Một triệu bảy trăm nghìn đồng). Anh Y T1 và A Y1 không yêu cầu bồi thường gì khác và đã có Đơn bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt và xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo Y.
Tại Cáo trạng số 58/CT-VKS-P2 ngày 21/3/2024, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai đã truy tố bị cáo Y về tội "Giết người" theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.
2. Diễn biến tại phiên tòa:
- Bị cáo Y khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
- Ý kiến của Kiểm sát viên: Giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị: Tuyên bố bị cáo Y phạm tội: "Giết người".
Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15, Điều 38, khoản 3 Điều 57, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Y mức án từ 08 năm tù đến 09 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy: Một con dao rựa dài 39cm, một áo sơ mi ngắn màu trắng đen, một khăn vải màu xanh, một áo thun không có tay áo, 02 cục bông thấm chất màu nâu nghi máu.
Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
- Ý kiến của Luật sư Đặng Ngọc B1 bảo chữa cho bị cáo: Các thủ tục tố tụng được thực hiện đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi của bị cáo. Tại phiên tòa, bị cáo Y cũng đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Bị cáo Y lần đầu phạm tội, thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, thuộc hộ nghèo nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định pháp luật. Mức án do Viện kiểm sát đề nghị từ 08 năm tù đến 09 năm tù là nghiêm khắc. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Y.
- Ý kiến của bị hại anh Y T1: Không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Y.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh A Y1 trình bày: Đối với hành vi cố ý gây thương tích dùng dao chém vào vai anh thì bị cáo đã bồi thường cho anh, anh đã có đơn rút yêu cầu khởi tố và không có yêu cầu gì tại phiên tòa hôm nay.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà B: Bị cáo tác động nên bà bồi thường thay, nay bà không có yêu cầu bị cáo trả lại số tiền đã bồi thường.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo, bị hại không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 05/9/2023, chỉ vì không tìm được điện thoại mà bị cáo Y bực tức cầm 01 dao rựa chém một phát vào vai phải của A, anh Y T1 có lời nói can ngăn thì bị cáo vừa đe dọa vừa đi đến đứng đối diện chém 01 nhát vào đỉnh thái dương trước trái của Y T1 làm Y T1 ngã gục xuống nhà. Hậu quả, A bị thương tích 08% tổn hại sức khoẻ (thương tích do vật sắc bén gây ra là 02%, thương tích do bị choáng ngã là 06%); Y T1 bị thương tích tổn hại 02% sức khoẻ.
Hành vi của bị cáo là côn đồ, hung hãn, bất chấp tính mạng của bị hại, đã dùng dao rựa chém thẳng vào đầu bị hại, gây ra vết thương thái dương trái kích thước #5cm, sâu lộ sọ, làm bị hại ngã gục xuống hè nhà, do bà B và chị A1 xông vào can ngăn, đẩy bị cáo ra nên bị cáo mới dừng lại và bỏ đi. Áp dụng Án lệ số 47/2021/AL "Về việc xác định tội danh trong trường hợp bị cáo dùng hung khí nguy hiểm đâm vào vùng trọng yếu của cơ thể bị hại" thì việc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Gia Lai truy tố bị cáo tội "Giết người" với tình tiết định khung "Có tính chất côn đồ" theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là đúng tội. Thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt.
[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:
- Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, đe dọa thiệt hại tính mạng của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an.
- Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng.
- Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đầu thú, thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường cho bị hại, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Bị cáo phạm tội chưa đạt nên được áp dụng quy định tại Điều 15 và khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, xét bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, đã bồi thường xong toàn bộ cho bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự xử bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.
[4] Về dân sự: Bà B là mẹ của bị cáo đã bồi thường cho Y T1 4.380.000 đồng. Y T1 có đơn xin bãi nại, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và không yêu cầu bồi thường gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy công cụ phạm tội và các vật mang dấu vết tội phạm, không có giá trị sử dụng gồm: 01 con dao rựa dài 39cm, 01 áo sơ mi ngắn màu trắng đen, 01 khăn vải màu xanh, 01 áo thun không có tay áo, 01 cục bông thấm chất màu nâu nghi máu.
[6] Về tình tiết khác có liên quan: Đối với hành vi của Y dùng dao chém vào vai của A, do A có đơn yêu cầu khởi tố nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đ đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Y về tội "Cố ý gây thương tích" theo quy định tại khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Bà B là mẹ của Y đã bồi thường cho A 1.700.000 đồng. Ngày 29/02/2024, A đã có Đơn xin rút yêu cầu khởi tố đối với A nên vụ án đã đình chỉ.
[7] Về án phí: Bị cáo Y thuộc hộ nghèo và có đơn xin miễn án phí. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí lệ, phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố bị cáo Y phạm tội: "Giết người" Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54; Điều 15, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Y 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06/9/2023.
2. Về dân sự: Không xem xét.
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu hủy:
- 01 (Một) con dao rựa dài 39cm, lưỡi dao bằng kim loại dài 26,3cm, mũi bằng, phần rộng nhất 05cm, lưỡi dao dính đất, cán dao bị gãy.
- 01 (Một) áo sơ mi ngắn tay màu trắng đen, kích thước (58x41)cm.
- 01 (Một) khăn vải màu xanh, kích thước (94x44)cm.
- 01 (Một) áo thun không có tay áo, kích thước (69x40)cm.
- 02 (Hai) cục bông thấm chất màu nâu nghi máu. Tất cả được niêm phong trong 06 (sáu) bì công văn của Phòng K - Công an tỉnh G, được ghi ký hiệu lần lượt từ M1 đến M6, tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn, nội dung "CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ", các chữ ký, chữ viết ghi họ tên: Trần Minh D và Đặng Huy N1.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng số 90/2024 lập ngày 25/3/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh G và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Gia Lai).
4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí lệ, phí Tòa án: Bị cáo Y được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo Bản án lên Tòa án nhân dân cấp cao Đà Nẵng để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
Bản án về tội giết người số 43/2024/HS-ST
Số hiệu: | 43/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về