Bản án về tội giết người số 27/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 27/2024/HS-ST NGÀY 11/07/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11-7-2024, tại Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 16/2024/TLST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2024; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 117/2024/QĐXXST-HS ngày 12/6/2024 đối với bị cáo:

Lê Nhất N, sinh năm: 2002 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT: Số A, Tổ 6, T, Phường A, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; chỗ ở: Số A N, L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Tài xế; trình độ học vấn: 12/12; con ông: Không rõ; con bà: Lê Thị T; vợ con: Chưa có; tiền án; tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 19/9/2023. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh L. Có mặt.

- Người bảo chữa cho bị cáo: Luật sư Huỳnh Hải Đ - Văn phòng L1 - Đoàn Luật sư tỉnh L; địa chỉ: Số H Đường B, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Bị hại:

1. Anh K, sinh năm 1998 (đã chết);

Đại diện hợp pháp của bị hại K'Quang : Bà K1, sinh năm 1991; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn K, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Anh Cil Ha N1, sinh năm 2005 (đã chết);

Đại diện hợp pháp của bị hại Cil H: Ông Ya t, sinh năm 1967 và bà Cil Ma L, sinh năm 1982; nơi cư trú: Thôn D, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Lê Thị T, sinh năm 1969; nơi cư trú: Số A N, xã L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

2. Ngân hàng TMCP C1 - Chi nhánh 6 Thành phố H; địa chỉ: Tầng A, tầng A, tầng 2, một phần tầng 11 tỏa nhà F N, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh. Vắng mặt.

3. Đại diện Công ty TNHH Đ1 - Ông Lê Văn H, sinh năm 1980; Chủ tịch công đoàn Công ty TNHH Đ1; địa chỉ: Số H N, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Phan Thị Ngọc M, sinh năm 2001; nơi cư trú: Số D, thôn Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

2. Ông Huỳnh Hữu T1, sinh năm 1990; nơi cư trú: Số F thôn K, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

3. Bà Nguyễn Thị Kim H1, sinh năm 1985; nơi cư trú: Thôn Q, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

4. Bà K2, sinh năm 2003; nơi cư trú: Số D, K'Long A, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

5. Ông Trần Quang P, sinh năm 1990; nơi cư trú: Khu F, thôn R, xã P, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

6. Chị Võ Ngọc Anh T2, sinh ngày 27 tháng 9 năm 2008; người giám hộ: Bà Nguyễn Thị Thúy P1; nơi cư trú: Thôn T. Xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Vắng mặt.

7. Chị Phan Thị Hằng M1, sinh ngày 12 tháng 9 năm 2008; người giám hộ: Ông Trần Quang H2, sinh năm 1978; nơi cư trú: 1 Q, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 20 phút ngày 18/9/2023, Lê Nhất N là nhân viên lái xe taxi của hãng LADO thuộc công ty TNHH Đ1, lái xe taxi biển kiểm soát 49E xxxx ở gần tượng đài liệt sỹ thuộc TTLiên Nghĩa, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng để chờ và đón khách thì có chị Phan Thị Ngọc M đến hỏi và yêu cầu chờ về thôn Đ, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng thì N đồng ý, sau khi chị M lên xe ngồi vào hàng ghế sau thì N điều khiển xe chờ chị M di chuyển theo đường Quốc lộ 20 hướng về Đ.

Khi xe của N đi đến đoạn đường dưới dốc V (gần khu vực chùa G) thuộc địa phận xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng thì thấy có 01 xe mô tô biển kiểm soát: 49C1 - xxxx do K không có giấy phép lái xe điều khiển chờ C H ngồi sau cầm một con dao có đặc điểm: lưỡi dao màu bạc, dao dài khoảng 30cm, có mũi nhọn chạy phía trước xe ô tô của N. Do K chạy xe mô tô di chuyển lạng lách, bốc đầu, nên xe N không vượt lên được. N bấm còi xe ô tô để xin nhường đường, vượt lên nhưng xe mô tô của K điều khiển vẫn di chuyển ở giữa đường. Do xe mô tô chạy phía trước không nhường đường, nên N phải điều khiển xe taxi đi sang làn đường bên trái để tránh và vượt qua xe mô tô của K và Cil H.

Mặc dù xe N đã vượt lên, nhưng xe của K và C H vẫn chạy theo nẹt pô và ép sát phía bên phải xe ô tô của N. Do khi đó kính cửa xe phía trước bên phải hạ xuống một ít, nên N nghe được K nói: “Mày xuống đây nói chuyện”. Nghe vậy N tăng ga chạy về hướng Đ với tốc độ khoảng 70 - 80 km/giờ. N điều khiển xe chạy ở phần đường bên phải theo hướng di chuyển và gần giữa đường. Xe của K và Cil Ha N1 vẫn đuổi theo và chạy sát bên phải xe ô tô của N. N thấy K dùng tay trái đầy gương chiếu hậu bên phải của xe ô tô do N điều khiển làm gương chiếu hậu bên phải bị lệch về phía trước. Do thấy xe mô tô của K và Cil H vừa đuổi theo vừa nẹt pô và muốn vượt lên phía trước xe ô tô, nên N nghĩ là K và C H muốn chặn đầu xe của mình, vì vậy N đã tăng ga xe ô tô để xe mô tô không vượt qua được.

Sau khi xe K và Cil Ha N1 đuổi theo xe của N quãng đường khoảng 500 mét thì N nảy sinh ý định đánh lái về bên phải đường để ngăn không cho xe mô tô của K và Cil H đuổi theo được nữa. Do gương chiếu hậu bên phải bị K đầy ngược về phía trước nên không quan sát phía sau được, do vậy N quay đầu lại nhìn thì thấy xe mô tô của K và Cil H đang chạy song song gần cửa sau bên phải xe của N. Lúc đó xe N đang di chuyển với tốc độ khoảng 70 km đến 80km/giờ thì bất ngờ N đánh lái sang bên phải và nghe thấy tiếng “đùng” phát ra ở phía bên phải phần trước xe ô tô của N. N biết xe ô tô của mình đã va chạm với xe mô tô của K và C H nên N đánh lái sang bên trái để điều khiển xe ô tô đi ra phần đường của mình và tiếp tục di chuyển về hướng thôn Đ.

Sau khi hai xe va chạm thì N có xin lỗi chị M. Khi xe đến gần nhà thờ Đ2, chị M xuống xe thì N nhờ chị Mai c lại gương chiếu hậu bên phải xe ô tô. Sau đó N điều khiển xe qua Trạm thu phí Đ3 lên đường đèo về hướng hồ T rồi về Đ.

Khi đến đoạn đường Q thuộc thành phố Đ, N xuống xe kiểm tra và thấy có vết móp, xước ở cánh cửa phía trước bên phải xe ô tô. N nghĩ các dấu vết đó là do xe ô tô của N va chạm với xe mô tô của K và Cil H tạo ra. Sau đó N tiếp tục đi chờ khách, sau đó về đậu ở bãi rửa xe của Công ty TNHH Đ1 và nằm trong xe ngủ, đến khoảng 04 giờ sáng ngày 19/9/2023, Công an huyện Đ đến đưa N về trụ sở để làm việc. (BL 225-252) Hậu Quả: Q và Cil H sau khi va chạm với xe ô tô của Lê Nhất N đã tử vong.

Tại Bản kết luận giám định tử thi số 140/KLGĐTT-PYLĐ ngày 28/09/2023 của Trung tâm Pháp y tính L đã kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân Cil H là: Chấn thương sọ não hở. (BL 105) .

Phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong Máu của C H là 74.32mmo/l (BL 201) Tại Bản kết luận giám định tử thi số 141/KLGĐTT-PYLĐ ngày 28/09/2023 của Trung tâm Pháp y tính L đã kết luận nguyên nhân chết của nạn nhân K là: Đa chấn thương. (BL 110).

Phiếu kết quả xét nghiệm nồng độ cồn trong Máu của K là 67.84mmo/l.

Vật chứng thu giữ :

- 04 (bốn) USB liên quan đến vụ va chạm giữa xe ô tô có BKS: 49E xxxx và xe mô tô có BKS: 49C1 - xxxx. ( Lưu giữ trong hồ sơ vụ án BL 123a,126a,129a,132a) - 01 (một) xe ô tô hiệu Hyundai, số loại Accent 1.4MT Base có BKS: 49E-xxxx. (BL 19 ) - 01 (một) giấy phép lái xe ô tô số 680220005061 của Lê Nhất N.

- 01 (một) giấy chứng nhận kiểm định số EA 1253106 của xe 49E-xxxx - 01 (một) con dao được niêm phong trong túi niêm phong có mã số (thu giữ khi khám nghiệm trường BL 02) - 01 (một) xe mô tô hiệu Suzuki Satria F150, màu xanh đen có BKS: 49C1 - xxxx. (thu giữ khi khám nghiệm trường BL 02). Hiện đã trả lại cho gia đình Cil H (nạn nhân trong vụ án) (BL 217) Về trách nhiệm dân sự:

Sau khi vụ án xảy ra, gia đình bị cáo đã bồi thường cho mỗi gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ. Đại diện hợp pháp gia đình bị hại K’ Quang yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 171.765.000đ tiền mai táng và tiền tổn thất về tinh thần. Đại diện hợp pháp gia đình bị hại Cil H yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 160.000.000đ tiền mai táng và tiền tổn thất về tinh thần. (BL 254, 263). Tại phiên tòa, gia đình các bị hại chưa cung cấp các chứng cứ về tiền mai táng và đề nghị được tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác và yêu cầu bị cáo bồi thường tiền tổn thất tinh thần theo quy định; đề nghị xử lý bị cáo theo quy định pháp luật.

Cáo trạng số 25/CT-VKSLD-P2 ngày 02/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Lê Nhất N về tội “Giết người” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã quy kết, không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản cáo trạng.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng giữ nguyên cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Về tội danh căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự, đề nghị tuyên bố bị cáo Lê Nhất N phạm tội “Giết người”. Về hình phạt, áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123; các điểm e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Nhất N từ 14 (mười bốn) năm đến 16 (mười sáu) năm tù.

Về phần trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần cho mỗi gia đình bị hại 150.000.000đ. Đề nghị tách ra giải quyết trong bị án dân sự khác về khoản yêu cầu bồi thường chi phí mai táng đối với gia đình bị hại. Ghi nhận tự nguyện hỗ trợ của Công ty TNHH Đ1 với số tiền 100.000.000đ cho các gia đình bị hại.

Đề nghị xử lý vật chứng:

- Hoàn trả cho bị cáo: 01 (một) giấy phép lái xe ô tô số 680220005061 của Lê Nhất N;

- Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị: 01 (một) con dao được niêm phong trong túi niêm phong có mã số 2008480;

- Hoàn trả cho Công ty TNHH Đ1: 01 (một) xe ô tô hiệu Hyundai, số loại Accent 1.4MT Base có BKS: 49E-xxxx (kèm chìa khóa); 01 giấy chứng nhận kiểm định số EA 1253106 của xe 49E-xxxx.

Luật sư Huỳnh Hải Đ bào chữa cho bị cáo Lê Nhất N: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các bị hại có hành vi đe dọa, đẩy gương chiếu hậu của xe bị cáo, hành vi của bị cáo nhằm ngăn cản không cho các bị hại vượt lên. Như vậy Viện kiểm sát truy tố bị cáo tội “Giết người” theo khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là quá nặng, mà bị cáo chi phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo Điều 125 Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhân sự tự nguyện hỗ trợ 100.000.000đ của Công ty TNHH Đ1. Còn yêu cầu về chi phí mai táng xin được giải quyết theo quy định của pháp luật. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bồi thường một phần cho gia đình các bị hại, nhân thân tốt, thành khẩn khai báo, xin Hội đồng xét xử xử bị cáo với mức án thấp nhất.

Bị cáo không tranh luận.

Bà K1 trình bày: Thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát, không đồng ý với quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo.

Gia đình ông Ya T3, bà Cil Ma L không tranh luận. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không tranh luận. Lời nói sau cùng của bị cáo: Mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo mức ăn thấp nhất để bị cáo lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án không khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được tiến hành hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lê Nhất N đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 20h20’ ngày 18/9/2023; Lê Nhất N là tài xế của hằng taxi LADO thuộc công ty TNHH Đ1. Trong quá trình chờ khách từ Thị trấn L, huyện Đ về Thôn Đ, xã H, huyện Đ thì xe ôtô biển kiểm soát 49E-xxxx do Lê Nhất N điều khiển đã gặp xe mô tô biển kiểm soát 49C1 - xxxx do K không có giấy phép lái xe và đã sử dụng rượu, bia điều khiển chở sau là C H đi cùng chiều, lang lách, đánh võng. Lê Nhất N bấm còi và vượt lên; sau đó K và C H trên tay cầm 01 con dao dài khoảng 30cm, có mũi nhọn tiếp tục đuổi theo xe của N và có lời lẽ đe dọa rồi dùng tay đẩy kính chiếu hậu xe ô tô của N. Do hoảng sợ, N nảy sinh ý định đánh lái về bên phải đường để ngăn không cho xe mô tô của K và Cil H đuổi theo nữa. Khi đến đoạn đường thuộc Km 211+900 Q, thôn T, xã H, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng thấy xe mô tô của K và C H chạy với tốc độ khoảng 70 km đến 80 km/giờ song song gần cửa sau bên phải xe ôtô của N thì bất ngờ N đánh lái sang bên phải dẫn đến việc 02 xe va chạm mạnh, K và Cil H bị ngã xuống đường và tử vong.

Hành vi cố ý dùng xe ô tô là nguồn nguy hiểm cao độ bất ngờ đánh lái ép xe của K và Cil H dẫn đến cả hai bị hại té và tử vong là hành vi nguy hiểm đã trực tiếp xâm phạm tính mạng của K và Cil H. . Bị cáo chạy xe ô tô và có đủ thời gian chạy xe vượt khỏi xe của các bị hại. Bị cáo khai các bị hại chỉ yêu cầu dừng xe để nói chuyện chứ chưa có hành động cụ thể. Vì vậy Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị chuyển tội danh của Luật sư bào chữa cho bị cáo.

Như vậy, bản Cáo trạng số 25/CT-VKS-P2 ngày 02/4/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Lê Nhất N về tội “Giết người” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất vụ án là đặc biệt nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xem thường tính mạng của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh tại địa phương. Vì vậy, cần quyết định mức án nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian dài mới có tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đánh giá nhân thân của bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, gia đình bị cáo đã bồi thường cho mỗi gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng), sửa xe cho gia đình bị hại Cil H 11.000.000đ (mười một triệu đồng), bị cáo phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định các tại điểm e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ án xảy ra, gia đình bị cáo Lê Nhất N đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho mỗi gia đình bị hại số tiền 10.000.000đ (mười triệu đồng), sửa xe cho gia đình bị hại Cil H 11.000.000đ (mười một triệu đồng). Tại phiên tòa hôm nay, đại diện hợp pháp gia đình bị hại Q yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) tiền mai táng và tiền tổn thất về tinh thần, đại diện hợp pháp gia đình bị hại Cil H yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 500.000.000đ (năm trăm triệu đồng) tiền mai táng và tiền tổn thất về tinh thần nhưng gia đình các bị hại khai chưa cung cấp được các tài liệu chứng cứ về chi phí mai táng nên xin đề nghị tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác và chỉ yêu cầu bồi thường tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật. Xét thấy yêu cầu của các bị hại là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ các Điều 584, 590, 591 Bộ luật Dân sự buộc bị cáo bồi thường tiền tổn thất tinh thần cho mỗi gia đình bị hại số tiền 150.000.000đ (một trăm năm mươi triệu đồng) theo quy định pháp luật. Tại phiên tòa, ông Lê Văn H (đại diện Công ty TNHH Đ1) tự nguyện hỗ trợ cùng bị cáo bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại Q 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) và Cil H 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng). Bị cáo chỉ cần phải bồi thường cho mỗi gia đình bị hại 100.000.000đ (một trăm triệu đồng). Việc tự nguyện bồi thường như trên là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Đối với các khoản chi phí mai táng, do gia đình bị hại chưa có điều kiện chứng minh nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng và đại diện hợp pháp cho các bị hại tách ra để giải quyết bằng vụ án dân sự khác theo quy định tại Điều 30 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[6] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ Luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

6.1. Hoàn trả cho bị cáo: 01 (một) giấy phép lái xe ô tô số 680220005061 của Lê Nhất N;

6.2. Tịch thu tiêu hủy vật chứng không có giá trị: 01 (một) con dao được niêm phong trong túi niêm phong có mã số 2008480 (kèm theo bản phô tô biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 18/09/2023);

6.3. Hoàn trả cho Công ty TNHH Đ1: 01 (một) ô tô hiệu Hyundai, số loại Accent 1.4MT Base, biển kiểm soát: 49E-xxxx (kèm chìa khóa), (không kiểm tra máy móc bên trong và tình trạng hoạt động của xe), (được dán giấy niêm phong, còn nguyên niêm phong, theo biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 29/12/2023); 01 giấy chứng nhận kiểm định số EA 1253106 của xe 49E-xxxx.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 123; các điểm e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lê Nhất N phạm tội “Giết người”.

Xử phạt bị cáo Lê Nhất N 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 19/9/2023.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 48 Bộ luật Hình sự, Điều 584, 590, 591 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo có trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần cho gia đình bị hại Q số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) (do bà K1 đại diện), bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại Cil H số tiền 100.000.000đ (một trăm triệu đồng) (do ông Ya T3, bà Cil Ma L đại diện). Công ty TNHH Đ1 có trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần cho gia đình bị hại Q 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) (do bà K1 đại diện) và gia đình bị hại Cil H 50.000.000đ (năm mươi triệu đồng) (do ông Ya T3, bà Cil Ma L đại diện).

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, bên phải thi hành án không trả số tiền nêu trên; còn phải trả số tiền lãi, tương ứng với thời gian và số tiền chậm trả, theo mức lãi suất quy định khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

3.1. Hoàn trả cho bị cáo: 01 (một) giấy phép lái xe ô tô số 680220005061 của Lê Nhất N;

3.2. Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) con dao được niêm phong trong túi niêm phong có mã số 2008480 (kèm theo bản phô tô biên bản khám nghiệm hiện trường ngày 18/9/2023);

3.3. Hoàn trả cho Công ty TNHH Đ1: 01 (một) ô tô hiệu Hyundai, số loại Accent 1.4MT Base, biển kiểm soát: 49E-xxxx (kèm chìa khóa), (không kiểm tra máy móc bên trong và tình trạng hoạt động của xe), (được dán giấy niêm phong, còn nguyên niêm phong, theo biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ ngày 29/12/2023); 01 giấy chứng nhận kiểm định số EA 1253106 của xe 49E-xxxx.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/4/2024 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Nhất N phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và 10.000.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm. Người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao Bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ được kháng cáo phần có liên quan đến vụ án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 27/2024/HS-ST

Số hiệu:27/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/07/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;