Bản án về tội giết người số 27/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 27/2024/HS-ST NGÀY 22/04/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 22 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 23 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 19/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 3 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Thanh T, giới tính: nam; sinh năm 1997; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận;

Nơi ĐKNKTT : khu phố G, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Chỗ ở: khu phố H, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Lao động biển; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị Kim H; Gia đình có 03 anh em, Nguyễn Thanh T là con thứ hai. Vợ: bà Nguyễn Thị Minh Y, sinh năm 1998; Con: 02 người con, lớn nhất sinh năm 2016, nhỏ nhất sinh năm 2023;Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo Nguyễn Thanh T bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2023, tại Trại tạm giam – Công an tỉnh B.

2. Hoàng Thành C, tên gọi khác: B, giới tính: nam; sinh năm: 1998; Nơi sinh: tỉnh Bình Thuận.

Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: khu phố H, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Thợ cắt tóc; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Hoàng Văn H1 (đã chết) và bà Dương Thị T2, Gia đình có 03 chị em, Hoàng Thành C là con nhỏ nhất.

Tiền sự: Không; Tiền án: tại Bản án số 77/2021/HS-ST ngày 14/10/2021 Tòa án nhân dân thị xã La Gi, tỉnh Bình Thuận xử phạt Hoàng Thành C 02 năm 06 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 30/8/2023. Chưa xóa án tích.

Hoàng Thành C bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/11/2023, tại Trại tạm giam - Công an tỉnh B. Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa chỉ định cho 2 bị cáo: Luật sư Vũ Hồ T3, Văn phòng L1, Đoàn luật sư tỉnh B; (có mặt)

- Bị hại: Ông Trần Trung Đ -sinh năm 1997 (có mặt) Địa chỉ cư trú: khu phố G, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

- Người làm chứng: ông Nguyễn Bảo A, sinh năm 2000. Địa chỉ cư trú: Thôn M, xã H, huyện H, tỉnh Bình Thuận. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 18/11/2023, bị cáo Nguyễn Thanh T làm về rồi uống bia một mình. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, lúc đang uống bia, T cho rằng trước đó ông Trần Trung B1 là em con dì có thái độ không tôn trọng mình. Do đó, T gọi điện thoại cho dì ruột là bà Nguyễn Thị Kim L là mẹ ruột của ông B1 để nói chuyện và qua điện thoại, bà L cho biết ông B1 vừa mới đi làm về nên bị cáo T yêu cầu bà L chuyển máy để bị cáo T nói chuyện với B1 nhưng B1 không đồng ý nói chuyện, thì bị cáo T tỏ ra bực tức nên nảy sinh ý định đánh B1. Sau đó, bị cáo T gọi điện thoại cho bạn là bị cáo Hoàng Thành C nói: “Đi đánh thằng này với anh”, bị cáo C đồng ý rồi T điều khiển xe mô tô, biển số 86H5-80xx đến nhà bị cáo C. Thấy bị cáo T đến dừng xe bên ngoài, bị cáo C chủ động lấy một khẩu súng, loại súng hình bút bằng kim loại, dài 11,5cm, đường kính 1,2 cm là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng, thuộc loại súng chế tạo thủ công, trong súng có sẵn 01 viên đạn cất vào túi quần và đi ra nơi T đứng đợi. Do biết được C có súng bút nên T hỏi: “Có mang theo đồ chơi chưa?” C trả lời: “Mang theo súng rồi” rồi lên xe mô tô do T điều khiển. Trên đường đi, T nói với C khi đến nơi cứ đứng ở ngoài, nếu T bị B1 đánh thì C hãy xông vào hỗ trợ T đánh lại.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, khi dừng xe trước nhà Trần Trung B1, T bảo C lấy súng ra lên đạn sẵn và đưa cho T, còn C ngồi trên xe đợi trước nhà. T cầm súng đi vào nhà tìm B1, khi vào khu vực hiên trước nhà gặp B1, thì T xông đến để đánh B1 thì ông Trần Trung Đ là anh ruột của B1 can ngăn, B1 chạy đi thì T và Đ tiếp tục giằng co nhau trong tư thế đối diện, T cầm súng bằng tay phải dùng ngón tay cái kéo gạt chốt súng thả ra bắn 01 phát đạn nổ đầu đạn trúng vào vùng ngực phải của ông Đ. Bị trúng đạn do T bắn, Đ bị thương chảy máu ở ngực ngồi gục xuống. C bên ngoài nghe tiếng súng nổ, thấy Đ ngồi gục xuống, biết là T đã sử dụng súng bút bắn trúng Đ nên điều khiển xe mô tô chạy về nhà. Ngay sau khi bắn Đ bị thương, T đi ra ngoài đường nhưng không thấy C nên cầm khẩu súng trên đi bộ về. (Bút lục: 184-186, 236-238, 239-240, 261-262, 300-301) Trần Trung Đ bị thương, được đưa đến Bệnh viện Đ1 cấp cứu, sau đó chuyển đến Bệnh viện đa khoa tỉnh B và Bệnh viện Chợ Rẫy - Thành phố H tiếp tục cấp cứu, điều trị.

Biên bản xác định hiện trường do Cơ quan CSĐT- Công an thị xã L lập lúc 8 giờ ngày 19/11/2023, tại khu phố G, phường P, thị xã L, như sau:

Nguyễn Thanh T và Hoàng Thành C xác định:

1 là vị trí Nguyễn Thanh T dựng xe máy biển số 86H5-80xx trên đường hẻm bê tông trước nhà bà Nguyễn Thị Kim L. 2 là vị trí Nguyễn Thanh T và Trần Trung Đ giằng co xô xát, sau đó T dùng súng bắn Đ. 3 là vị trí C ngồi trên xe quan sát, trùng vị trí để xe ban đầu, cách vị trí Nguyễn Thanh T và Trần Trung Đ giằng co xô xát, sau đó T dùng súng bắn Đ là 5m.

Bản kết luận giám định ban đầu tổn thương cơ thể trên người sống số 70/KLTTCT-TTGĐYKPYBT ngày 28/11/2023 Trung tâm giám định Y khoa - Pháp y tỉnh B, kết luận đối với thương tích của Trần Trung Đ như sau:

-Vết thương vùng ngực phải thấu ngực phải gây tràn khí – tràn máu màng phổi phải, dập phổi phải, dị vật phổi phải đã được phẫu thuật điều trị; hiện vết thương dài 1,5cm khâu 01 mũi chỉ, vết mổ trên đường nách trước bên phải dài 5cm khâu 4 mũi chỉ, vết mổ dẫn lưu đường nách giữa bên phải; sây sát xung quanh vết thương kích thước (2 x 1) cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể từ: (1% - 3%) + (1% - 3%) + (1% - 3%)+ (3%-%)+(6%-10%).

-Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trần Trung Đ tại thời điểm giám định khoảng từ 12% đến 22%.

-Vết thương do hỏa khí gây ra.

-Vết thương có chiều hướng lực tác động từ trước ra sau.

Kết luận giám định số: 7300/KL-KTHS ngày 21/11/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

1. Khẩu súng hình bút bằng kim loại, dài 11,5cm, đường kính khoảng 1,2cm gửi giám định là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng, thuộc loại súng chế tạo thủ công hình bút, bắn đạn cỡ (5,6x15,5)mm, khẩu súng này còn bắn được.

2. Sử dụng khẩu súng nêu trên bắn với loại đạn (5,6 x 15,5)mm trúng cơ thể người có thể gây thương vong.

Kết luận giám định số: 7569/KL-KTHS ngày 04/12/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Vật kim loại kích thước khoảng (5 x 10)mm (ký hiệu M2) là đầu đạn của loại đạn cỡ (5,6 x 15,5) mm. Không đủ cơ sở xác định đầu đạn ký hiệu M2 có phải được bắn ra từ khẩu súng ký hiệu M1 hay không.

Công văn số: 163/C09B ngày 23/01/2024 của Phân Viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh xác định:

Đầu đạn ký hiệu M2 là đầu đạn của loại đạn cỡ (5,6 x 15,5) mm có thể được bắn ra từ súng hình bút (có đặc điểm giống với khẩu súng ký hiệu M1), súng ổ quay chế tạo thủ công… Đầu đạn ký hiệu M2 khi được bắn ra bởi khẩu súng phù hợp, trúng cơ thể người có khả năng gây thương vong.

Việc thu giữ, xử lý vật chứng:

- 01 khẩu súng hình bút bằng kim loại, dài 11,5 cm, đường kính 1,2 cm do Nguyễn Thanh T giao nộp;

- 01 đầu đạn bằng kim loại, kích thước khoảng (5 x 10)mm thu giữ trong quá trình phẫu thuật Trần Trung Đ tại Bệnh viện C - Thành phố Hồ Chí Minh. - 01 hộp giấy màu đen kích thước (3,3 x 9,5 x 12,6)cm hộp đựng súng hình bút thu giữ tại nhà Hoàng Thành C. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận ra Quyết định chuyển vật chứng số 07/QĐ-VKS-P2 ngày 22/02/2024 chuyển đến kho vật chứng của Cơ quan An ninh điều tra - Công an tỉnh B để tiếp tục điều tra xử lý theo thẩm quyền.

Về phần dân sự:

Bị hại Trần Trung Đ được bà Nguyễn Thị Kim H, sinh năm 1973 là mẹ của bị cáo Nguyễn Thanh T đã bồi thường 40.000.000 đồng và bà Dương Thị T2, là mẹ của bị cáo Hoàng Thành C đã bồi thường 12.000.000đồng. Ông Trần Trung Đ không yêu cầu bồi thường thêm về dân sự và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại Bản cáo trạng số 09/CT-VKSBT-P2, ngày 22 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo Nguyễn Thanh T, Hoàng Thành C về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T từ 08 năm tù đến 09 năm tù. Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, khoản 3 Điều 57, Điều 58 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Hoàng Thành C từ 07 năm tù đến 08 năm tù.

- Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Về tội danh, thống nhất với tội danh mà Viện Kiểm sát tỉnh Bình Thuận truy tố bị cáo. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử cần thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo, nhân thân bị cáo T là gia đình có công với cách mạng. Từ đó đề nghị xử phạt bị cáo dưới mức đề nghị của Viện Kiểm sát.

- Ý kiến các bị cáo thống nhất với phần bào chữa của luật sư và không bổ sung gì thêm.

- Bị hại yêu cầu xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Không có yêu cầu bồi thường thiệt hại về dân sự.

Các bị cáo nói lời sau cùng xin lỗi bị hại và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định về thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thể hiện tại hồ sơ là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, người làm chứng, Biên bản khám nghiệm hiện trường, các Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác, HĐXX đủ cơ sở kết luận:

[2.1] Bị cáo Nguyễn Thanh T có mâu thuẫn với ông Trần Trung B1 vì T cho rằng ông B1 không tôn trọng mình. Bị cáo T biết bị cáo Hoàng Thành C có cây súng hình bút nên khoảng 19 giờ ngày 18/11/2023, T rủ C mang súng hình bút cùng đi giải quyết mâu thuẫn. Bị cáo T dùng xe mô tô chở bị cáo C đến nhà ông Trần Trung B1 ở khu phố G, phường P, thị xã L, tỉnh Bình Thuận. Tại đây, bị cáo C đứng đợi bên ngoài và đưa khẩu súng trên đã lên đạn sẵn cho bị cáo T vào nhà ông B1. Bị cáo T đi vào hiên trước nhà để đánh ông B1 thì được ông Trần Trung Đ là anh ruột của ông B1 can ngăn và giằng co với T ở tư thế đối diện. Trong lúc giằng co, bị cáo T dùng súng bút trên bắn 01 phát trúng ngực phải của ông Đ từ khoảng cách 5m, gây thương tích, tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 12% đến 22%.

[2.2] Theo Kết luận giám định số 7300/KL-KTHS ngày 21/11/2023 của Phân viện Khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Khẩu súng hình bút bằng kim loại, dài 11,5cm, đường kính khoảng 1,2cm gửi giám định là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng, thuộc loại súng chế tạo thủ công hình bút, bắn đạn cỡ (5,6x15,5)mm, khẩu súng này còn bắn được; Sử dụng khẩu súng nêu trên bắn với loại đạn (5,6 x 15,5)mm trúng cơ thể người có thể gây thương vong.

[2.3] Hành vi dùng súng bắn người tuy hậu quả chết người chưa xảy ra nhưng bị cáo Nguyễn Thanh T sử dụng súng vũ khí quân dụng, thuộc loại súng chế tạo thủ công bắn vào vùng ngực là bộ phận xung yếu của con người ở cự ly gần là rất nguy hiểm, có khả năng gây chết người là cố ý tước đoạt tính mạng con người. Hành vi của bị cáo sử dụng súng bắn vào người ông Trần Trung Đ là người không có mâu thuẫn gì với mình là côn đồ hung hãn, đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Hậu quả chết người chưa xảy ra nên thuộc trường hợp “Phạm tội chưa đạt”.

[2.4] Trong vụ án này có đồng phạm giản đơn, bị cáo Nguyễn Thanh T là người rủ rê và trực tiếp thực hiện gây ra hậu quả của vụ án nên phải chịu trách nhiệm chính. Bị cáo Hoàng Thành C là người tiếp nhận ý chí đem theo vũ khí, sau đó cho T mượn vũ khí và canh chừng, hỗ trợ khi cần thiết. Do đó, bị cáo Hoàng Thành C là đồng phạm trong vụ án với vai trò giúp sức nên phải chịu trách nhiệm chung về hành vi và hậu quả do Nguyễn Thanh T gây ra. Như vậy Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến tính mạng của bị hại, đủ yếu cấu thành tội “Giết người” với tình tiết định khung “Có tính chất côn đồ” tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Hoàng Thành C là có căn cứ.

[3] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo T không có tình tiết tăng nặng. Bị cáo Hoàng Thành C có một tiền án chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là tái phạm thuộc tình tiết tăng nặngtrách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Sau khi gây án, các bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại cho bị hại và được bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo T có thêm tình tiết giảm nhẹ là gia đình có công với cách mạng, ông ngoại là liệt sĩ. Vì vậy HĐXX xem xét cho các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Xét tính chất mức độ phạm tội: các bị cáo là người thành niên, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi sử dụng vũ khí bắn người thể hiện tính hung hãn, côn đồ, xem thường pháp luật, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung. Tuy nhiên bị cáo T chưa có tiền án, tiền sự, không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo C chỉ tham gia với vai trò hạn chế. Do đó HĐXX thấy rằng cần áp dụng hình phạt tù tương xứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung nhưng cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình. Các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 Điều 51 Bộ Luật hình sự nên HĐXX xem xét xử áp dụng Điều 54 Bộ Luật hình sự để xử dưới khung hình phạt.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận tiền bồi thường từ các bị cáo và gia đình. Tại phiên tòa, bị hại không có yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xét.

[6] Về hành vi của Hoàng Thành C cất giấu khẩu súng và hành vi của Nguyễn Thanh T sử dụng súng bắn Trần Trung Đ bị thương có dấu hiệu của tội: “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự đã được tách ra xử lý trong vụ án khác. Về xử lý vật chứng: Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Thuận ra Quyết định chuyển vật chứng số 07/QĐ-VKS-P2 ngày 22/02/2024, chuyển các vật chứng đến Cơ quan An ninh điều tra - Công an tỉnh B để điều tra xử lý. Do đó vật chứng trong vụ án này HĐXX không xem xét xử lý vật chứng.

[7] Về án phí: các bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: bị cáo Nguyễn Thanh T phạm tội “Giết người”.

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thanh T 09 năm tù (chín năm tù). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 19/11/2023.

2.Căn cứ: điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 38, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, khoản 1 Điều 54, khoản 3 Điều 57, Điều 58 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: bị cáo Hoàng Thành C phạm tội “Giết người”.

- Xử phạt: bị cáo Hoàng Thành C 8 năm tù ( tám năm tù). Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 19/11/2023.

4. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thanh T , bị cáo Hoàng Thành C, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Quyền kháng cáo bản án của bị cáo, bị hại là 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án (22-4-2024).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

35
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 27/2024/HS-ST

Số hiệu:27/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: đang cập nhật
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;