Bản án về tội giết người số 23/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 23/2021/HS-ST NGÀY 09/09/2021 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Trong ngày 09 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 31 2021 TL T-H ngày 05 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021 QĐXX T- HS ngày 25 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Trịnh Thanh P (tên gọi khác: H) sinh năm 1962 tại tỉnh Vĩnh Long; Nơi cư trú: Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Làm vườn; Con ông Trịnh Công L (đã chết) và bà Trần Thị Thanh P (đã chết); bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình; Bị cáo có vợ là Lê Thị H (đã chết) và 02 người con, lớn nhất sinh năm 1986, nhỏ nhất sinh năm 1987; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/10/2020 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Ngưi bào chữa cho bị cáo Trịnh Thanh P: Luật sư Trịnh Đắc H – Luật sư thuộc Văn phòng luật sư H và Cộng sự, Đoàn luật sư tỉnh Bình Phước; Địa chỉ: Số 751 Quốc lộ 14, phường T, thành phố Đ, tỉnh Bình Phước (có mặt).

Bị hại: Lê Văn , sinh năm 1986; Địa chỉ: Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước (có mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Trần Thị Kiều P, sinh năm 1988; Trú tại: Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước (có mặt);

2. Ông Trịnh Anh L, sinh năm 1987; Trú tại: Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước (có mặt);

Người làm chứng:

1. Ông Trần Văn H, sinh năm 1980; Trú tại: Tổ 4, Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước (có mặt);

2. Cháu Lê Hoàng Tiến M, sinh ngày 01 02 2015; Địa chỉ: Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước (Vắng mặt) Người giám hộ cho cháu Minh: Chị Trần Thị Kiều P, sinh năm 1988; Trú tại: Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước (Mẹ ruột cháu M)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ ngày 21/10/2020, Trịnh Thanh P, Lê Văn , Trần Văn H cùng ngồi uống rượu tại hiên nhà của P tại Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước. Đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, P xuống nhà bếp lấy nước đá, lúc này H thấy S đã say nên nói S đi về nhà nghỉ nhưng S không chịu về nên H và S xảy ra cải nhau. P đi lên thấy S và H to tiếng với nhau thì P can ngăn nhưng S vẫn cãi nhau với H nên P đuổi S về. S không đi về và có thái độ thách thức P nên P cầm lấy 01 cái chén và 01 cái đĩa tại vị trí uống rượu ném xuống nền nhà làm chén và đĩa vỡ thành nhiều mảnh và nói nếu S không về thì P sẽ chém S. Ngay lúc này P đi xuống bếp lấy 01 con dao dài 47cm (cán dao dài 15cm, lưỡi dao dài 32cm) đi lên đứng phía sau lưng S và nói “tao chém chết mẹ mày” đồng thời tay trái P cầm dao chém 01 nhát hướng từ trên xuống trúng vào vùng đầu bên trái, trượt xuống trán của S, S nhổm dậy quay người về phía P thì bị trượt chân té úp với tư thế hai tay, hai chân chống xuống nền nhà, P tiếp tục chém thêm 01 nhát trúng vào vùng lưng của S rồi P cầm dao đi vào nhà đóng cửa lại. Lúc này H chở S đến nhà ông Nguyễn Thành N tại Ấp Đ rồi ông N chở S đến Trung tâm y tế huyện L cấp cứu. Đến khoảng 21 giờ 10 phút cùng ngày, P mang con dao chém S đến Công an xã L, huyện L đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 219/2020/TgT ngày 07/12/2020 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bình Phước kết luận:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Sẹo trán – đỉnh lệch trái kích thước 4 x 0,2cm gọn, mềm.

- Nứt sọ trán trái. 17% - Sẹo đỉnh phải kích thước 4 x 0,1cm gọn, mềm: 01% - Sẹo ngang cột sống thắt lưng kéo về phía bên trái kích thước 17 x 3cm gọn: 02% 2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 19% (mười chín phần trăm) Tại bản kết luận giám định số 5570/C09B ngày 18/11/2020 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

Trên con dao dài 47cm gửi giám định (ký hiệu A) phân tích được AND hoàn chỉnh của một nam giới, trùng với AND của Lê Văn (ký hiệu B). Không phát hiện thấy AND của Trịnh Thanh P (ký hiệu C) Tại bản kết luận giám định pháp y qua hồ sơ số 350/2020/HS ngày 24/12/2020 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bình Phước kết luận:

1. Các tổn thương trên cơ thể của ông Lê Văn do vật có cạnh sắt tác động trực tiếp gây ra.

2. Con dao (vật chứng giám định) khi tác động bằng phần lưỡi sắc vào cơ thể có thể gây ra được các tổn thương trên cơ thể của Lê Văn .

Tại Bản kết luận giám định pháp y qua hồ sơ số 09/2020/HS ngày 25/01/2021 của Trung tâm pháp y – Sở y tế tỉnh Bình Phước kết luận:

Vật chứng 1 (con dao) và vật chứng 2 (mảnh sành) khi tác động trực tiếp vào cơ thể có thể gây ra thương tích “ ẹo đỉnh phải kích thước 4 x 0,1cm” của Lê Văn (vật chứng 2 là (mảnh sành) phù hợp hơn).

Vật chứng thu giữ trong quá trình điều tra gồm: 01 con dao dài 47cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 32cm, một bên sắc, một bên tù, bản rộng nhất của lưỡi dao là 4,7cm, cán dao bằng gỗ dài 15cm, đường kính 03cm, cán dao được quấn dây cao su màu đen, một số mảnh sành vỡ không rõ kích thước.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, anh Trịnh Anh L là con trai ruột của bị cáo Trịnh Thanh P đã thỏa thuận và bồi thường cho anh Lê Văn số tiền 62.254.000 đồng. Bị hại anh Lê Văn không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Cáo trạng số 17/CT-VKS-P2 ngày 01/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Trịnh Thanh P phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Bị cáo Trịnh Thanh P thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố đối với bị cáo.

- Bị hại Lê Văn đề nghị Hội đồng xét xử: xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo P vì bị cáo tuổi đã cao.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Trịnh Thanh P phạm tội “Giết người”.

Về hình phạt: Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; các Điều 15, 38, 50, 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt: Bị cáo Trịnh Thanh P mức án từ 07 đến 08 năm tù.

Ngoài ra còn đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Quan điểm Luật sư bào chữa cho bị cáo Trịnh Thanh P cho rằng hành vi của bị cáo mà Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố là đúng người đúng tội và đúng pháp luật nên không có ý kiến gì về tội danh, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ để khắc phục thiệt hại cho người bị hại, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn và có trình độ học vấn thấp dẫn đến nhận thức về pháp luật hạn chế theo quy định điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để cho bị cáo được hưởng mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 Bộ luật hình sự 2015.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Cơ quan điều tra - Công an tỉnh Bình Phước, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo, bị cáo, bị hại, không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo Trịnh Thanh P khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước đã truy tố. Xét lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, biên bản thực nghiệm điều tra, kết luận giám định, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng về thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập có tại hồ sơ vụ án được xét hỏi công khai tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 21 10 2020, trong lúc uống rượu tại hiên nhà của Trịnh Thanh P tại Ấp Đ, xã L, huyện L, tỉnh Bình Phước, giữa bị cáo P và bị hại S có xảy ra mâu thuẫn về việc S lớn tiếng cãi nhau với ông Trần Văn H thì bị cáo P có can ngăn đuổi S về nhưng S không về và có lời lẽ thách thức P. Do tức giận nên P xuống bếp lấy 01 con dao dài 47cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 32cm, một bên sắc, một bên tù, bản rộng nhất của lưỡi dao là 4,7cm, cán dao bằng gỗ dài 15cm, đường kính 03cm, cán dao được quấn dây cao su màu đen đi vòng từ cửa nhà bếp lên đứng phía sau lưng của bị hại S, tay trái cầm dao chém từ trên xuống 01 nhát trúng vùng đầu, trượt xuống trán của S, S chồm người đứng dậy thì bị trượt chân té úp với tư thế quỳ chống hai tay, hai chân xuống nền nhà thì P tiếp tục chém tiếp nhát thứ hai thì trúng vào vùng lưng của S. Tại kết luận giám định pháp y về thương tích của Trung tâm pháp y – ở Y tế tỉnh Bình Phước kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại S do thương tích gây nên hiện tại là 19%.

[3] Xét thấy, chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong khi uống rượu mà ngày 21/10/2020 bị cáo P nói “tao chém chết mẹ mày” và ngay lập tức xuống nhà bếp lấy 01 con dao là hung khí nguy hiểm, chém 01 nhát vào vùng đầu, sau khi chém nhát thứ nhất theo phản xạ bị hại đứng chồm dậy thì bị cáo tiếp tục dùng dao chém nhát thứ hai trúng vào vùng lưng của bị hại. Bị cáo đã lén tấn công bị hại từ phía sau, ở tư thế này bị hại hoàn toàn bị động và không có khả năng chống trả, vị trí bị cáo chém là những vùng trọng yếu của cơ thể, có nguy cơ cao dẫn đến chết người nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện sự coi thường sức khỏe và tính mạng của người khác, việc bị hại không chết là do được cứu chữa kịp thời. Hành vi trên của bị cáo nhằm tước đi tính mạng của bị hại, thể hiện tính chất côn đồ, sẵn sàng dùng vũ lực để giải quyết mâu thuẫn, nên đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n, khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Phước truy tố đối với bị cáo Trịnh Thanh P là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người là khách thể được Bộ luật hình sự ưu tiên bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa P. Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội.

[5]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tác động gia đình khắc phục hậu quả cho gia đình bị hại đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại các điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan Công an đầu thú, bản thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có phần hạn chế, tại phiên tòa bị hại cũng xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 và nhiều tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 nên sau khi xem xét, tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo xét thấy cần có mức hình phạt tương xứng, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa tội phạm nói chung và xem xét áp dụng Điều 54 xử phạt bị cáo hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, truy tố con trai ruột của bị cáo là anh Trịnh Anh L đã bồi thường cho bị hại S số tiền 62.254.000 đồng Tại phiên tòa người bị hại ông Lê Văn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị Kiều P không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với số tiền 62.254.000 đồng mà ông L là con của bị cáo đứng ra bồi thường thay cho bị cáo, tại phiên tòa ông L không yêu cầu bị cáo P phải trả lại số tiền nêu trên nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự, tịch thu tiêu hủy các công cụ bị cáo sử dụng vào việc phạm tội và các vật, tài sản không còn giá trị sử dụng theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 07 7 2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Bình Phước: 01 con dao dài 47cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 32cm, một bên sắc, một bên tù, bản rộng nhất của lưỡi dao là 4,7cm, cán dao bằng gỗ dài 15cm, đường kính 03cm, cán dao được quấn dây cao su màu đen; một số mảnh sành vỡ không rõ kích thước.

[9]. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trịnh Thanh P phải chịu 200.000 đồng.

[10] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận một phần.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố bị cáo Trịnh Thanh P (H) phạm tội “Giết người”

2. Về áp dụng điều luật và hình phạt:

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 50; Điều 54; Điều 57, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trịnh Thanh P (H) 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam 21/10/2020.

3. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự, Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 con dao dài 47cm, lưỡi dao bằng kim loại màu đen dài 32cm, một bên sắc, một bên tù, bản rộng nhất của lưỡi dao là 4,7cm, cán dao bằng gỗ dài 15cm, đường kính 03cm, cán dao được quấn dây cao su màu đen; một số mảnh sành vỡ không rõ kích thước.

4. Về án phí hình sự sơ thẩm:

Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Trịnh Thanh P chịu 200.000 đồng;

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

710
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 23/2021/HS-ST

Số hiệu:23/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;