Bản án về tội giết người số 17/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 17/2022/HS-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 13/01/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 508/2021/TLST-HS ngày 25/11/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 594/2021/QĐXXST-HS ngày 02/12/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 58/2021/HSST-QĐ ngày 21/12/2021 đối với bị cáo:

TRẦN ĐỨC T, sinh năm 1996; giới tính: Nam; ĐKNKTT và trú tại: Nhà số 117/F14, ngách 41/22, phố ĐK (Khu tập thể SCV), phường ĐT, quận TA, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 10/12; con ông Trần Đức Q và bà Lê Thị Tuyết L (Đã chết); tiền án: Bản án hình sự sơ thẩm số 20/2019/HS-ST ngày 24/01/2019 của Tòa án nhân dân quận TA, thành phố Hà Nội xử phạt 16 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 19/3/2020; tiền sự: Chưa; nhân thân: Ngày 01/01/2017, Công an phường ĐT, quận TA xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Ngày 15/8/2018, Công an quận TA xử phạt hành chính về hành vi “Xâm hại sức khỏe người thân trong gia đình”; bị cáo đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/02/2021; hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 02 của Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ Xuân Đ, Luật sư thuộc Công ty Luật TNHH L - Đoàn luật sư thành phố Hà Nội. Có mặt.

Bị hại đồng thời là người đại diện hợp pháp cho bị cáo: Ông Trần Đức Q, sinh năm 1959; ĐKNKTT và trú tại: Nhà số 117/F14, ngách 41/22, phố ĐK (Khu tập thể Cao su Sao Vàng), phường ĐT, quận TA, thành phố Hà Nội. Có mặt.

Bị hại : Anh Trần Đức H, sinh năm 1993; ĐKNKTT và trú tại: Nhà số 117/F14, ngách 41/22, phố ĐK (Khu tập thể Cao su Sao Vàng), phường ĐT, quận TA, thành phố Hà Nội. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Trần Đức T là đối tượng nghiện ma túy và sống tại số nhà 117/F14, khu tập thể SCV, phường ĐT, quận TA, thành phố Hà Nội cùng với bố đẻ là ông Trần Đức Q và anh trai là Trần Đức H. Quá trình sinh sống cùng bố và anh trai, Trần Đức T đã nhiều lần gây sự và có hành vi dùng dao chém những người thân, cụ thể:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 08/12/2020, trong khi ở trên gác xép tầng 02 của gia đình, T không tìm thấy sạc điện thoại nên gọi điện hỏi anh Trần Đức H: “Mày cầm sạc tao đi đâu?”; Anh H trả lời: “Không biết” thì T nói: “Không mày thì chỉ có bố thôi” rồi tắt máy. Lúc này, T nhìn thấy ông Q đang nằm xem tivi ở tầng 01 nên hỏi vọng xuống: “Bố có cầm dây sạc của con không?”; ông Q trả lời: “Không biết” rồi tiếp tục xem tivi. T cho rằng ông Q đã lấy sạc điện thoại của mình nên đi xuống tầng 01 vào bếp lấy 01 con dao (Loại dao chặt xương dài 32cm, lưỡi dao bằng kim loại 01 cạnh sắc dài 20cm, bản rộng 10,5cm) đi đến chỗ ông Q đang nằm, tay T phải cầm dao vung lên chém 04 nhát vào vùng đầu làm ông Q bị rách da đầu, chảy máu; bị chém ông Q: “Tao xin mày, mày định giết tao à?” nên T dừng lại không chém ông Q nữa. Sau đó, ông Q đi đến Bệnh viện Xây dựng cấp cứu khâu vết thương.

Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 09/12/2020, ông Q cùng anh H đang nằm xem tivi tại tầng 01 và anh H chuẩn bị đưa ông Q đi thay băng vết thương vùng đầu. Lúc này, T từ gác xép tầng 02 hỏi vọng xuống: “H, có phải mày làm xước điện thoại của tao không?”. Anh H trả lời: “Không”. Lúc này, T cho rằng anh H đã làm xước điện thoại của mình nên cầm 01 con dao (Dạng dao thái, dài 52cm, lưỡi dao dài 40cm, bản rộng 5cm, có 01 cạnh sắc) đi từ tầng 02 xuống đến chỗ anh H nằm và tiếp tục hỏi: “Mày làm xước điện thoại của tao đúng không?”; Anh H trả lời: “Không, mày điên à?”. T liền dùng tay phải cầm dao vung lên chém 01 nhát vào đầu anh H. Thấy anh H bị chém, ông Q hét lên: “Chúng mày định giết nhau à?” và lấy gối đỡ cho anh H nên T chém anh H 03 nhát tiếp theo bị trượt. Anh H bị chém ôm đầu bỏ chạy ra ngoài, T cầm dao đuổi theo sau ra đến đầu ngõ trước nhà thì không đuổi được nên quay về rồi cầm dao đi đến nhà bà ngoại T ở số 04/36, ngõ 250, phố KT, phường KT, quận TA. Anh Trần Đức H được đưa đến Bệnh viện đa khoa Đống Đa cấp cứu. Đến 15 giờ cùng ngày 09/12/2020, ông Q và anh H đến Công an phường ĐT, quận TA, thành phố Hà Nội trình báo về việc bị T dùng dao chém trọng thương.

Sau khi xảy ra vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận TA đã phối hợp với các Phòng nghiệp vụ của Công an thành phố Hà Nội tiến hành dựng lại hiện trường, thực nghiệm điều tra, thu giữ các dấu vết, vật chứng liên quan:

Tại Biên bản dựng lại hiện trường và thực nghiệm điều tra vụ án hồi 10 giờ ngày 09/11/2021, thể hiện: “… Nơi xảy ra vụ án là nhà số 117, ngách 41/22, phố ĐK (Tập thể SCV), phường ĐT, quận TA, Hà Nội; nhà 117 có diện tích khoảng 20m2, xây 02 tầng, 01 tum, tầng 01 và 02 là phòng ở; nhà có 01 cửa ra vào quay hướng Tây, phía Tây giáp đường ngách 41/22, đối diện qua đường là nhà số 6, phía Bắc giáp nhà số 118, phía Đông khu dân cư, phía Nam giáp nhà số 116 và Trạm khai báo tạm trú, tạm vắng cụm 07. Cửa nhà dạng cửa xếp sắt kéo đẩy sang phải kích thước (2,1x0,95)m; thẳng cửa vào là lối đi rộng 1,1m; sâu 3,2m; trên lối đi có cầu thang bộ dẫn lên tầng 02 bằng khung sắt rộng 0,65m. Tại tầng 01 gian ngoài là phòng ở, gian trong là bếp có cửa kích thước 0,85x0,7m, chưa lắp cánh cửa. Gian ngoài được bố trí sát tường phải và tường trái là tủ gỗ, sát tường trước là bể cá cảnh. Trên sàn, sát tủ gỗ bên phải và sát tường sau có trải chiếu, trên chiếu có một số chăn, gối, quần áo để lộn xộn”.

Dựng lại và thực nghiệm theo lời khai của bị cáo Trần Đức T trong ngày 08/12/2020: “… Khi đi từ tầng 02 xuống tầng 01, T xuống đến chân cầu thang thì nhìn thấy ông Q đang nằm tựa lưng sát tường sau, cách mép phải cửa bếp 0,8m, hai chân hướng ra ngoài. T đi vào bếp tay phải lấy dao (dạng dao chặt, lưỡi sắc) trên bệ bếp, sau đó đi ra ngoài đứng ngang bên phải ông Q, cách ông Q 0,54m, cách tường sau 0,25m. Lúc này, tay phải T cầm dao, mũi dao hướng lên phía trước, phần lưỡi dao hướng lên trên. T giơ dao lên chém 02 nhát vào vùng đầu ông Q, chiều hướng từ trên xuống dưới. Ông Q nói “mày định giết tao à” rồi đứng dậy đi ra ngoài, T cầm dao đi vào bếp”.

Dựng lại và thực nghiệm theo lời khai của bị cáo Trần Đức T trong ngày 09/12/2020: “… Khi đi từ tầng 02 xuống tầng 01, xuống đến cầu thang thì nhìn thấy ông Q đang nằm tựa lưng sát tường sau, cách cửa bếp 0,8m, hai chân hướng ra ngoài, H nằm ngửa sát bên trái ông Q. Tay phải T cầm dao (dạng dao thái, lưỡi sắc) đi vào phòng thì ông Q đứng dậy đi ra đường ở sát cửa bếp. T đi đến đứng vào sát chân phải của H tại vị trí cách tường sau 0,6m, cách tường trái 2,17m. T tay phải cầm dao, lúc này mũi dao hướng phía trước, lưỡi dao hướng lên trên. T giơ dao lên chém 03 nhát từ trên xuống dưới vào vùng đầu của H, H giơ tay trái lên đỡ nên không trúng vào đầu. Khi H bỏ tay xuống thì T chém 01 nhát nữa vào vùng đầu H. Lúc này ông Q lấy chăn chùm lên đầu T thì H đứng dậy chạy ra ngoài, T cũng bỏ ra ngoài ngay sau đó”.

Dựng lại và thực nghiệm theo lời khai của ông Trần Đức Q trong ngày 08/12/2020: “… Khi ông Q đang nằm xem tivi ở tầng 01, tại vị trí cách mép phải cửa bếp 0,8m, tựa lưng sát tường sau, hai chân hướng ra ngoài. Ông Q nhìn thấy T đi từ tầng 02 xuống đến chân cầu thang. T tiếp tục đi vào bếp một lúc sau đi ra đứng sát bên phải ông Q, cách ông Q 0,5m, cách tường sau 01m. Lúc này tay phải T cầm dao (dạng dao chặt, lưỡi sắc) phần mũi dao hướng phía trước, phần lưỡi dao hướng xuống dưới. T giơ dao chém 02 nhát vào vùng đầu ông Q (phần lưỡi dao tiếp xúc với đầu). Ông Q hô lên “tao xin mày, mày định giết tao à” thì T dừng lại không chém nữa, còn ông Q đứng dậy đi ra khỏi nhà”.

Dựng lại và thực nghiệm theo lời khai của ông Trần Đức Q trong ngày 09/12/2020: “… Ông Q nằm xem tivi ở tầng 01, tại vị trí cách mép phải cửa bếp 0,8m, tựa lưng vào tường sau, hai chân hướng ra ngoài. H nằm cạnh bên trái ông Q. Ông Q thấy T đi từ tầng 02 xuống, tay phải cầm vật gì đó giấu sau lưng. T tiếp tục tiến đến đứng sát giữa ông Q và H, tại vị trí cách tường sau 01m, cách tường trái 2,17m. T hỏi “ mày làm xước điện thoại của tao, đúng không”, H trả lời “không, mày điên à” thì T đưa tay phải về phía trước. Ông Q thấy T cầm con dao (dạng dao thái, một lưỡi sắc) mũi dao hướng về phía trước, phần lưỡi dao hướng xuống dưới. Lúc này H ngồi dậy thì T vung dao chém lên chém 01 nhát vào vùng đầu của H (phần lưỡi dao tiếp xúc với vùng đầu). Ông Q thấy T chém H thì hô “bọn mày định giết nhau à”, đồng thời dùng tay phải lấy chiếc gối ở sau lưng lên đỡ cho H. T chém khoảng 03 nhát về phía H nhưng không trúng, sau đó H vùng dậy chạy ra ngoài”.

Tại Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 61/TTPY ngày 19/01/2021 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Hà Nội đối với thương tích của ông Trần Đức Q, kết luận: “… 04 vết thương vùng đầu: 09%; Hiện chưa đánh giá được hết các mức độ di chứng và biến chứng của các tổn thương. Đề nghị giám định bổ sung sau nếu có căn cứ; Nhiều khả năng các thương tích do vật sắc gây nên; Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 09%”. Ngày 24/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 42/PC02-Đ3 đối với thương tích ông Trần Đức Q nhưng ông Q từ chối giám định bổ sung.

Tại bản kết luận giám định pháp y thương tích số 59/TTPY ngày 19/01/2021 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế Hà Nội đối với thương tích của anh Trần Đức H, kết luận: “…Vết thương ngang vùng trán đỉnh trong chân tóc:

03%; Chấn động não: Không bình thường với sự xuất hiện của sóng chậm Delta sau khi kích thích ánh sáng và hít thở sâu: 01%; Nhiều khả năng thương tích do vật có cạnh sắc gây nên; Tỷ lệ tổn hại sức khỏe: 04%”. Ngày 24/9/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội đã ra Quyết định trưng cầu giám định bổ sung số 41/PC02-Đ3 đối với thương tích anh Trần Đức H nhưng anh H từ chối giám định bổ sung.

Quá trình điều tra ông Trần Đức Q và bị cáo Trần Đức T giao nộp 02 con dao mà T sử dụng gây án; trong đó 01 con dao dài 32cm, lưỡi dài 20cm, cán gỗ dài 12cm; và 01 con dao dài 52cm, lưỡi dài 40cm, tay cầm bằng gỗ dài 12cm. Ngoài ra, Cơ quan điều tra còn thu giữ 01 bình nước kích thước 22,5cm, chiều dài phi 06cm, nắp đậy bằng nhựa màu xanh, thân hình bằng kim loại màu trắng có in hình lá màu xanh có chữ “Leaf” và 01 chiếc kìm màu đen dài 24cm, mũi kìm tròn dài 9,5cm, thân kìm dài 14,5cm.

Tại Bản kết luận giám định số 5224/C09-TT3 ngày 16/7/2021 của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an, kết luận: “Trên con dao ký hiệu A1 có bám dính máu của nạn nhân Trần Đức Q; Trên con dao ký hiệu A2 có bám dính máu người, không phân tích được kiểu gen từ dấu vết máu người này do lượng dấu vết ít và chất lượng dấu vết kém. Trên bình đựng nước ký hiệu A3 và chiếc kìm màu đen ký hiệu A4 không bám dính máu người. Lưu kiểu gen của Trần Đức Q và Trần Đức H tại Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an”.

Quá trình điều tra xác định ngày 10/4/2020, Trần Đức T vào Bệnh viện tâm thần Hà Nội để điều trị về bệnh tâm thần kinh do sử dụng ma túy. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trưng cầu giám định tâm thần tư pháp đối với Trần Đức T. Tại Bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 204/KLGĐ ngày 01/7/2021 của Viện Pháp y tâm thần Trung ương đối với Trần Đức T, kết luận: “… Trước, trong, sau thời điểm phạm tội ngày 08/12/2020 và ngày 09/12/2020 và tại thời điểm giám định Trần Đức T bị bệnh Rối loạn nhân cách và hành vi do sử dụng chất gây ảo giác. Theo phân loại bệnh quốc tế lần thứ 10 năm 1992 bệnh có mã số F16.71; Tại các thời điểm trên Trần Đức T hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi”.

Sau khi gây án, Trần Đức T bỏ trốn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận TA đã ra Quyết định truy nã. Ngày 09/02/2021, T ra đầu thú và khai nhận việc dùng dao chém ông Trần Đức Q và anh Trần Đức H nhưng chỉ chém bằng sống dao chứ không phải bằng lưỡi dao. Căn cứ thương tích trên đầu ông Q, anh H và Công văn số 579/TTPY ngày 29/9/2021 của Trung tâm pháp y Sở Y tế Hà Nội, có căn cứ xác định Trần Đức T đã chém phần lưỡi dao vào đầu ông Q và anh H như nội dung vụ án đã nêu trên.

Quá trình điều tra, ông Trần Đức Q còn trình báo ngày 29/12/2020 bị Trần Đức T dùng bình đựng nước đánh vào đầu; ngày 12/01/2021 bị Trần Đức T dùng kìm đánh vào đầu 04 cái. Tuy nhiên, do ông Q không đi giám định thương tích và không có đề nghị xử lý Trần Đức T nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xử lý.

Về trách nhiệm dân sự: Ông Trần Đức Q và anh Trần Đức H không yêu cầu bồi thường dân sự, đồng thời xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho Trần Đức T.

Cáo trạng số 489/CT-VKS-P2 ngày 22/11/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo Trần Đức T về tội “Giết người” theo quy định tại các điểm a, đ, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Trần Đức T thừa nhận hành vi dùng dao chém bố và anh trai như trên nhưng bị cáo cho rằng chỉ chém dọa chứ không có ý chém thật; bị cáo cũng không hiểu tại sao lúc đó lại làm như vậy. Bố đẻ bị cáo là ông Trần Đức Q không yêu cầu bồi thường và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hành vi của bị cáo, xét đến điều kiện, hoàn cảnh của gia đình ông để xử phạt bị cáo với tội danh phù hợp và hình phạt nhẹ nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và sau khi đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo đã đề nghị: Áp dụng các điểm a, đ, n khoản 1 Điều 123; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Đức T từ 10 đến 12 năm tù về tội “Giết người”; ghi nhận sự tự nguyện của các bị hại không yêu cầu bồi thường; tịch thu tiêu hủy toàn bộ vật chứng thu giữ.

Người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem tính chất, cường độ của hành vi; bị cáo không có mục đích giết người và thực tế hậu quả chưa xảy ra, các bị hại chỉ bị thương; đã ra đầu thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin và tha thứ cho bị cáo, không yêu cầu bồi thường; bản thân bị bệnh tâm thần nên hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; hoàn cảnh kinh tế và gia đình éo le, mẹ mất, anh bị bắt, bố bệnh tật, không ai trong gia đình có công ăn việc làm; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng khoản 1 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” với hình phạt khoan hồng, nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đối với bị cáo, các Cơ quan và người tiến hành tố tụng các cấp đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thẩm quyền, trình tự, thủ tục; không ai có ý kiến thắc mắc, khiếu nại gì.

[2] Về nội dung: Căn cứ lời khai của bị cáo Trần Đức T; lời khai của những người bị hại, làm chứng; các Biên bản, sơ đồ và bản ảnh khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra; Bệnh án điều trị; các bản kết luận giám định; các tang vật chứng thu giữ; và các tài liệu, chứng cứ chứng minh khác có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận thấy: Xuất phát từ những khúc mắc, mâu thuẫn trong sinh hoạt giữa các thành viên trong gia đình cùng sinh sống tại nhà số 117, ngách 41/22, phố ĐK (Tập thể SCV), phường ĐT, quận TA, thành phố Hà Nội. Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 08/12/2020, khi bố đẻ là ông Trần Đức Q đang nằm xem tivi tại tầng 01, Trần Đức T nghĩ ông Q lấy sạc điện thoại của mình nên đã đi từ tầng 02 xuống bếp lấy 01 con dao loại dao chặt xương cán gỗ dài 32cm, lưỡi kim loại dài 20cm, bản rộng 10,5cm đi đến chỗ ông Q nằm, tay phải cầm dao chém 04 nhát trúng vào đầu làm ông Q bị thương và được giám định tổn hại sức khỏe 09%. Đến khoảng 13 giờ 30 phút ngày 09/12/2020, khi anh trai là Trần Đức H đang nằm cùng bố là ông Trần Đức Q dưới tầng 01 xem tivi. Cho rằng anh H làm xước điện thoại của mình nên T cầm 01 con dao loại dao thái, dài 52cm, lưỡi dao dài 40cm, bản rộng 05cm từ tầng 02 xuống đến sát chỗ anh H nằm, tay phải T cầm dao chém 01 nhát trúng đầu anh H. Ông Q thấy vậy hô: “Chúng mày định giết nhau à?” và lấy gối đỡ cho anh H; T tiếp tục cầm dao chém anh H 03 nhát nhưng không trúng và đuổi theo anh H ra ngoài ngõ; hậu quả làm anh Trần Đức H bị vết thương vùng trán đỉnh, chấn động não và được giám định tổn hại sức khỏe 04%.

Hành vi nêu trên của bị cáo Trần Đức T đã phạm tội “Giết người” với các tình tiết tăng nặng định khung “Giết 02 người trở lên; Giết cha, mẹ của mình; và Có tính chất côn đồ” theo quy định tại các điểm a, đ, n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội đã viện dẫn để truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi; nhân thân; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo là rất nghiêm trọng; chỉ vì những khúc mắc, bất đồng nhỏ nhặt trong cuộc sống, bị cáo đã thể hiện tính côn đồ, hung hãn, sẵn sàng sử dụng dao sắc - Là hung khí nguy hiểm chém liên tiếp nhiều nhát vào vùng đầu - Là vùng trọng yếu trên cơ thể bố đẻ và anh trai ruột mình; khi thực hiện hành vi nêu trên, Trần Đức T buộc phải nhận thức được có thể gây nguy hại đến tính mạng con người nhưng bị cáo vẫn thực hiện; hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp chưa đạt.

Hành vi đó chẳng những xâm phạm sức khỏe, đe dọa tính mạng của người khác trái pháp luật mà còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội nghiêm trọng tại địa phương; gây hoang mang, rung động trong dư luận nhân dân về tình trạng xuống cấp của đạo đức; phá vỡ và làm băng hoại những giá trị truyền thống của dân tộc về tình cảm cha con, anh em trong gia đình. Cho dù là vì bất kỳ nguyên nhân gì thì hành vi của bị cáo là không thể chấp nhận được; hành vi đó đã gây tổn thất về thể chất và tinh thần của các bị hại với những mất mát khó có thể bù đắp nổi; hành vi đó cần phải được xử lý nghiêm minh trước pháp luật.

Sau khi phạm tội bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; đã ra đầu thú; bản thân có bệnh Rối loạn nhân cách và hành vi do sử dụng chất gây ảo giác dẫn đến hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi; các bị hại đề nghị miễn giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo là các tình tiết giảm nhẹ theo điểm s, q khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Về nhân thân, bị cáo đã bị kết án về tội ít nghiêm trọng chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tăng nặng “Tái phạm” theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Với diễn biến của hành vi, tính chất, mức độ, hậu quả nghiêm trọng của vụ án; và để răn đe, chống và phòng ngừa tội phạm nói chung thì cần thiết phải áp dụng hình phạt tù nghiêm khắc để cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian dài mới thỏa đáng.

[4] Về các biện pháp tư pháp:

4.1) Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xét.

4.2) Về xử lý vật chứng: Đối với 02 con dao, 01 chiếc kìm và 01 bình nước đã thu giữ không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.

[5] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Đức T phạm tội “Giết người”.

2. Về điều luật áp dụng và hình phạt: Áp dụng các điểm a, đ, n khoản 1 Điều 123; Điều 15; Điều 38; các điểm s, q khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 57 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Đức T 12 (Mười hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/02/2021.

3. Về các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

3.1) Ghi nhận sự tự nguyện của ông Trần Đức Q và anh Trần Đức H không yêu cầu bồi thường dân sự.

3.2) Tịch thu, tiêu hủy: 01 con dao dài 32cm, lưỡi dao dài 20cm, cán dao bằng gỗ dài 12cm; 01 con dao dài 52cm, lưỡi dao dài 40cm, tay cầm bằng gỗ dài 12cm; 01 bình nước kích thước 22,5cm, chiều dài phi 06cm, nắp đậy bằng nhựa màu xanh, thân bằng kim loại màu trắng có in hình lá màu xanh, có chữ Leaf; 01 chiếc kìm màu đen dài 24cm, mũi kìm tròn dài 9,5cm, thân kìm dài 14,5cm.

(Tình trạng toàn bộ số vật chứng trên như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Nội với Cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Nội ngày 12/01/2022).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Trần Đức T phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; người đại diện hợp pháp cho bị cáo; các bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại trụ sở Ủy ban nhân dân nơi cư trú./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 17/2022/HS-ST

Số hiệu:17/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;