Bản án về tội giết người số 168/2024/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 168/2024/HS-PT NGÀY 11/03/2024 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 11 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1422/2023/TLPT- HS ngày 06 tháng 12 năm 2023, do Bản án hình sự sơ thẩm số 386/2023/HS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội bị kháng cáo.

- Bị cáo có kháng cáo: Họ và tên: Trần Thị Thanh H; tên gọi khác: Hải A; sinh năm: 1993; giới tính: Nữ; ĐKNKTT: Xóm A, thôn T, xã T, huyện N, tỉnh Nam Định; nơi ở: Ngách D, ngõ D, đường L, phường N, quận T, thành phố Hà Nội; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 12/12; con ông: Trần Văn T; con bà: Bùi Thị G; chồng: Phạm Ngọc H1; con: Có 01 con sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không; danh chỉ bản số 000000251 ngày 12/4/2022 tại Công an quận N, thành phố Hà Nội; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/4/2022 đến nay; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo do Toà án chỉ định: Ông Nguyễn Quang T1, Luật sư Văn phòng L4 và cộng sự, Đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.

- Trong vụ án còn có 19 người đại diện hợp pháp của người bị hại, 01 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không bị kháng nghị, không triệu tập tham gia phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, diễn biến tại phiên tòa và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2016, Trần Thị Thanh H kết hôn với anh Phạm Ngọc H1; khoảng giữa năm 2019, vợ chồng H tìm được việc làm ở Hà Nội và thuê nhà trọ tại số D, đường L, phường N, quận T, Hà Nội để sinh sống. Trong khoảng thời gian này, mặc dù đang chung sống với anh H1 nhưng H tự lấy tên là “Hải A” làm quen với anh Chẩu Việt H2 (sinh năm 1994; trú tại thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang) đang thuê trọ ở tại số D, ngõ F, đường P, tổ D, phường P, quận N, Hà Nội và nói với anh H2 là chưa có chồng. Đến đầu năm 2020, H và anh H2 phát sinh quan hệ tình cảm nhưng hai người thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Đến tháng 02/2022, anh H2 đã chủ động chấm dứt quan hệ với H. Để níu kéo quan hệ tình cảm với anh H2, H nói dối anh H2 rằng mình đang có thai, yêu cầu anh H2 phải có trách nhiệm với H. Đến đầu tháng 03/2022, do không muốn gặp H nên anh H2 đã chuyển đến ở trọ cùng anh họ là anh Hoàng Công V (sinh năm 1990; trú tại thôn N, xã T, huyện L, tỉnh Tuyên Quang) tại phòng số 602 (tầng 6) số D, ngõ F, đường P, tổ D, phường P, quận N, Hà Nội với mục đích để trốn tránh và không muốn gặp H. Sau khi biết anh H2 chuyển chỗ ở, cho rằng anh V là người xúi giục, kích động anh H2 chấm dứt quan hệ với mình nên H nảy sinh ý định mua xăng đốt xe máy của anh V để trả thù. Khoảng 15 giờ ngày 31/3/2022, H điều khiển chiếc xe máy hiệu Nioshima Nio Plus (xe chưa đăng ký biển kiểm soát) đến cây xăng trên đường L, quận T, thành phố Hà Nội mua 30.000 đồng tiền xăng đựng vào 01 chai nhựa Lavie, loại 1,5 lít. Đến 18 giờ cùng ngày, H mặc bên ngoài chiếc áo khoác thể thao màu đen, đội mũ bảo hiểm màu đen, đeo khẩu trang, mang theo chai Lavie đựng xăng và 01 bao diêm nhãn hiệu “Thống nhất” rồi điều khiển xe máy đi đến nhà trọ của anh V tại địa chỉ trên. Đến nơi, H gặp một người đàn ông ở xóm trọ đi về mở cửa, H đã nói với người này cho vào bên trong nhà gặp bạn; khi vào bên trong, H nhìn thấy chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade, biển kiểm soát 22B2-xxxxx (xe của anh V) dựng ở gần cầu thang bộ, xung quanh có nhiều xe máy của những người khác. H lấy chai xăng, mở nắp chai và đổ khoảng hơn 01 lít xăng lên xe máy của anh V rồi để chai xăng ở khu vực gần cửa nhà vệ sinh tầng 01. Sau đó, H lấy bao diêm, quẹt đến que thứ 06 thì lửa bùng cháy và ném vào xe máy của anh V, dẫn tới cháy xe máy của anh V và gây cháy toàn bộ khu vực chân cầu thang tầng 01 của nhà trọ. Thấy lửa bùng lên H bỏ chạy ra ngoài, cởi áo khoác vứt bỏ tại khu vực cổng nhà trọ của ông Nghiêm Văn L, rồi điều khiển xe bỏ đi về nhà.

Tại thời điểm xảy ra cháy ở tầng 01 làm khói bốc lên, làm mất điện toàn bộ khu nhà trọ, hệ thống thang máy không hoạt động được, những người thuê trọ hoảng loạn, bỏ chạy ra khỏi phòng trọ, chen lấn chạy xuống cầu thang bộ, là lối thoát duy nhất của khu nhà để thoát ra bên ngoài, gồm: Chị Nguyễn Thị M đang ở trong phòng 601 chạy từ tầng 06 theo đường cầu thang bộ xuống dưới tầng 01 để thoát ra ngoài, khi chạy đến khu vực cầu thang bộ tầng 01 bị ngạt khói, ngã vào đám cháy dẫn đến tử vong tại chỗ; chị Bùi Thị Vân A1 bế 02 con nhỏ là cháu Trần Bùi Phương N (sinh ngày 09/3/2020), cháu Trần Bùi Phương T2 (sinh ngày 18/5/2018) đang ở trong phòng 501 chạy ra ngoài, xuống tầng 04 theo cầu thang bộ thì không thể đi tiếp được do khói nhiều và tường, lan can cầu thang rất nóng làm chị Vân A1 bị bỏng phần mu tay phải và cẳng tay phải, cháu Trần Bùi Phương T2 bị bỏng phần cánh tay phải, Trần Bùi Phương N bị bỏng phần mông, hai tay, hai chân, thắt lưng và vùng mạn sườn; chị Nguyễn Thị C đang ở trong phòng 404 chạy ra ngoài bị ngạt khói, hai khuỷu tay chạm vào tường nhà nóng, bị bỏng nhẹ nên lại chạy vào trong phòng 404; anh Nguyễn Mạnh D đang ở phòng 604 chạy ra ngoài theo đường cầu thang bộ chạy xuống tầng 01, chạy qua vùng lửa cháy thoát ra ngoài bị ngạt và bỏng nặng vùng mặt, cổ, bụng, ngực, hai tay, hai chân; đối với các thành viên trong gia đình ông Nghiêm Văn L - chủ nhà trọ, đều ở tầng 02 trên nhà, ông L và anh Nghiêm Thành T3, chị Nghiêm Thị Thùy L1, chị Nghiêm Thị L2 chạy ra hành lang, xuống cầu thang bộ chạy thoát ra ngoài. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, đám cháy đã được dập tắt.

Vụ cháy làm hư hỏng 13 xe máy, 01 xe máy điện, 01 xe đạp để ở tầng 01, khu vực gần chân cầu thang nhà trọ của: Anh Nguyễn T1, chị Vũ Thị L3, anh Hoàng Công V, chị Bùi Thị Vân A1, chị Lại Thị Thanh X, chị Trương Ngọc H3, anh Nguyễn Mạnh D, chị Lương Thị K, chị Võ Thị Kiều T4, chị Lê Thị K1, anh Cù Nhất Gia H4, anh Nguyễn Duy Đ, anh Trương Thanh T5, chị Lê Thị T6, chị Lê Thị Ánh . Làm hư hỏng tài sản của ông Nghiêm Văn L, cụ thể: 21 bộ điều hòa bị hư hỏng; hệ thống điện tại ngôi nhà bị hư hỏng (gồm 50 mét dây cáp 2x6; 40 mét dây cáp 02x1,5; 10 bộ đèn bán nguyệt; 25 bộ đui vát, bóng đèn; 05 chiếc ốp cảm biến; 06 bộ đui cảm biến, bóng); 02 chiếc máy bơm; 29 chiếc quạt trần; 01 phao chống cạn; 01 tivi Samsung; tường, trần toàn bộ nhà, các phòng bị bong tróc, ám khói (diện tích tầng 01 bị bong tróc 450m2. Diện tích các tầng nhà bị ám khói 2.550m2; trần thạch cao tầng 1 bị hỏng diện tích 150m2).

Kết quả khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thu thập vật chứng, dấu vết liên quan như sau:

Tại biên bản khám nghiệm hiện trường hồi 23 giờ 10 phút ngày 31/3/2022, xác định: "... Nơi xảy ra vụ cháy tại nhà số D, ngõ F, đường P, phường P, quận N, Hà Nội. Nhà số 04 quay hướng Tây, phía Tây là nhà số 06 và đường dẫn vào nhà số D, phía Nam giáp nhà ông Nguyễn Văn T7, phía Bắc và phía Đông giáp nhà dân. Nhà số 04 có diện tích khoảng 200m2, gồm 06 tầng 01 tum, tầng 01 là khu vực để xe. Nhà có 02 cửa ra vào, 01 cửa chính mở ra lối đi dẫn ra ngõ 60 có kích thước (1,3x2,5)m gồm 02 cánh cửa bằng song sắt mở bằng hệ thống vân tay, tại mặt trong cửa, cao cách sân 1,52m có hộp lấy dấu vân tay, phía trên cửa có 01 camera quan sát, quay vào sân. Lối đi phía trước nhà rộng 1,4m, trước cửa chính có 03 bình chữa cháy vỏ màu đỏ nhãn hiệu Powder. Cửa phụ mở thông với nhà số F, có kích thước (2,2x0,9)m gồm 01 cánh cửa bằng song sắt. Thẳng cửa chính vào, bên phải là khu vực để xe máy và phòng vệ sinh, phía trước là khu vực để xe máy, bên trái là phòng thờ, phía sau là khu vực cầu thang máy và cầu thang bộ dẫn lên các tầng. Các xe dựng sát tường phía Tây bị ám khói bụi đen. Khu vực phòng thờ có cửa kính bị nhiệt tác động, ám đen. Các đồ vật trong gian nhà thờ bị ám đen mạnh ở phía ngoài, giảm dần về phía trong. Các chiếc xe dựng sát tường phía Nam bị nhiệt động mạnh nhất ở chính giữa, chiều hướng tác động nhiệt từ phía Bắc về phía Nam. Khu vực để xe phía bên phải có dựng 02 hàng xe máy, 01 hàng dựng sát tường phía Nam quay đầu xe về phía Nam, 01 hàng dựng sát cầu thang bộ quay đầu xe về phía Bắc. Hàng xe dựng sát cầu thang bộ, cách tường phía Nam 3,3m có 06 chiếc xe máy bị nhiệt tác động mạnh làm nóng chảy lớp vỏ ngoài, trơ khung kim loại. Tại vị trí cách tường phía Nam 3,4m, cách tường phía Đông 4,8m là khu vực cháy triệt để nhất, chiếc xe máy tại khu vực này bị nhiệt tác động mạnh nhất và giảm dần ra xung quanh, chiếc xe này không gắn biển kiểm soát. Phần giáp ranh giữa lốp xe và động cơ bị nhiệt tác động mạnh nhất và giảm dần ra phần đầu xe. Sát đầu xe, cách tường phòng vệ sinh 02m, cách tường phía Nam 3,9m là vị trí nạn nhân nữ giới (chưa rõ tung tích) chết trong tư thế nằm ngửa, đầu quay hướng Đông, cơ thể nạn nhân bị cháy than hóa. Sát đuôi chiếc xe này có 01 chiếc biển kiểm soát 22B2-xxxx bị nóng chảy, biến dạng một phần, nằm lẫn trong đám sản phẩm cháy. Bên dưới chiếc xe này, trên sàn, sát cầu thang có nhiều sản phẩm cháy dạng nhựa nóng chảy, ám đen, nhiều mảnh gạch vụn,… trên diện (4,5x2,8)m. Tiến hành làm sạch nền nhà thấy nền gạch khu vực này bị ám đen đậm, loang lổ trên diện (1,6x1,2). Sát phía Đông chiếc xe này có xe máy bị cháy trơ khung kim loại, xe gắn biển kiểm soát 90F9 - xxxx. Trần nhà tương ứng phía trên khu vực này bị bong tróc loang lổ, xung quanh ám đen đậm. Phòng vệ sinh có kích thước (1,2x02)m. Sát tường phía Đông, cách mép phải cửa phòng vệ sinh 60cm, cách tường phía Nam 2,8m có 01 chai nhựa nhãn hiệu Lavie loại 1,5l bên trong chứa khoảng 250ml dung dịch màu xanh nhạt, chai có nắp đậy màu xanh. Khu vực cầu thang máy và cầu thang bộ có kích thước (3,35x4,6)m. Cửa thang máy hiện ở tình trạng đóng, bị ám đen. Phía trước cầu thang có 02 cây cột bê tông, cột phía Nam bị nhiệt tác động mạnh hơn cột phía Bắc. Cột phía Nam bị nhiệt tác động mạnh ở góc phía Đông Nam, mạnh ở phía dưới giảm dần lên phía trên. Từ sàn khu vực để xe đến sàn thang máy và thang bộ là các bậc thang lát đá cao 01m. Cầu thang bộ rộng 82cm. Từ sàn thang bộ có tay vịn bằng kim loại cao trung bình 01m chạy dọc theo các bậc thang lên tầng trên, phần tay vịn bị nhiệt tác động mạnh ở góc phía Tây, mức độ mạnh ở phía dưới giảm dần lên phía trên. Phần gạch ốp chân cầu thang khu vực cháy triệt để nhất bị nhiệt tác động làm bong tróc mạnh, trên diện (1,7x01)m. Từ tầng 02 đến tầng 06, mỗi tầng có 04 phòng dành cho khách thuê ở. Hành lang phía trước các phòng có kích thước (1,7x8,2)m. Trên tường phía Đông, sát cầu thang máy của các tầng có các cửa sổ bị bịt kín bởi các song sắt. Trên hành lang của tầng 04 và tầng 06, phía trước phòng 404 và 604 có 2 bình chữa cháy màu đỏ nhãn hiệu Powder. Hàng lang và bên trong các phòng bị ám khói đen theo hướng từ ngoài vào trong, mức độ mạnh ở khu vực cầu thang và giảm dần ra xung quanh, nặng ở dưới giảm dần lên phía trên. Tầng tum là khu vực chứa đồ, có 01 cửa mở ra ngoài thông với cầu thang bộ. Trên tường phía Nam, cao cách sàn 93cm, cách cửa tum 1,5m có ô thoáng kích thước (60x70)cm. Bên ngoài ô thoáng là ô văng bằng bê tông và mái tôn của tầng 06, trên ô văng có một số vết chân, vết giày dép ám đen. Trên tường phía Bắc, cách tường phía Đông 2,8m, cao cách sàn 93cm có ô thoáng kích thước (60x70)cm, bên ngoài ô thoáng là khoảng không. Mở rộng hiện trường: Tại khu đất giữa nhà số E và nhà số E, ngõ F, đường P, cách mép đương đi ngõ F là 6,7m, cách nhà số E là 2,4m có 01 chiếc áo khoác màu đen, mác áo có chữ Team21".

Vật chứng thu giữ của vụ án gồm:

- Sản phẩm cháy thu trên sàn khu để xe (gồm 13 chiếc xe máy, 01 xe máy điện, 01 chiếc xe đạp), cách tường phía Nam 3,3m, cách tường phía Đông 4,8m; Phần còn lại của chiếc xe máy không có biển kiểm soát đã bị nhiệt tác động thu tại vị trí cách tường phía Nam 3,4m, cách tường phía Đông 4,8m (M2).

- Chiếc áo khoác thu tại khu đất giữa nhà số E và nhà số E. - Chai nhựa chứa chất lỏng màu xanh nhạt.

- Tạm giữ của Trần Thị Thanh H: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu xanh, có Imei số 353912106367021 và 01 chiếc áo khoác chống nóng nữ dài tay, màu ghi xám.

- Tạm giữ của anh Chẩu Việt H2: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 Plus màu đen, có Imei số 359172072998275, đã qua sử dụng.

Tại Bản Kết luận Giám định pháp y số 3648/KL-KTHS ngày 06/6/2022 của Phòng K2 - Công an thành phố H, kết luận về nguyên nhân chết của nạn nhân Nguyễn Thị Mai Á như sau:

“… 1. Khám ngoài: Tử thi nữ giới, chiều dài 1,54m, thể tạng nhỏ. Toàn thân bị cháy than hoá.

- Đầu, mặt, cổ: Toàn bộ vùng đầu, mặt, cổ tổ chức da, cơ bị cháy than hoá.

Lộ xương sọ vùng trán đỉnh, trên diện (10x16)cm. Răng chắc, xương cột sống, cổ chắc. Ngoài dấu vết do cháy vùng đầu, mặt, cổ không phát hiện thấy thương tích nào khác.

- Ngực, bụng, lưng, mông: Tổ chức da bị cháy than hoá, nứt da ở nhiều vị trí, đặc biệt là vùng ngực phải và và vùng mông phải. Hệ thống khung xương lồng ngực cân đối. Không phát hiện dấu vết nghi vấn.

- Hai tay: Hai tay co ngang ngực, bàn tay co, da bị nứt lộ tổ chức gân, cơ ở nhiều vị trí. Xương không có tổn thương.

- Hai chân: Hai chân co, da bị nứt ở nhiều vị trí. Xương khớp không có tổn thương.

2. Khám trong:

- Đầu: Xương hộp sọ không có tổn thương. Màng não cứng bình thường. Não sung huyết, không có tổn thương.

- Ngực, bụng: Khung xương lồng ngực không có tổn thương, bao tim bình thường, cơ tim sung huyết, trong khoang tim có máu. Hai phổi sung huyết, trong lòng phế, khí quản có nhiều muội thanh màu đen. Niêm mạc thực quản sạch. Ổ bụng khô, các tạng trong ổ bụng không có tổn thương. Tử cung có kích thước (7x6)cm trong buồng tử cung có bộc ối kích thước (3,5x4,5)cm. Trong dạ dày có thức ăn… Kết luận:

- Toàn thân da, cơ bị cháy than hóa.

- Xương hộp sọ không có tổn thương. Màng não cứng bình thường. Não sung huyết, không có tổn thương.

- Khung xương lồng ngực không có tổn thương. Tim, phổi sung huyết. Lòng khí, phế quản có nhiều muội than màu đen. Các tạng trong ổ bụng không có tổn thương. Trong buồng tử cung có bọc ối. Dạ dày có thức ăn.

- Xét nghiệm vi thể: Mô phổi nhiều dịch, dịch bọt, có dị vật dạng hạt nhỏ, ít hồng cầu, chảy máy rộng. Mô tim đứt rách chỗ nối tơ cơ tim rải rác, sung huyết mạnh, chảy máu rải rác. Mô da tổn thương hướng tới do nhiệt độ cao. Mô gan, lách, não, tử cung, thận sung huyết mạnh, không phát hiện thấy bệnh lý bất thường.

- Nguyên nhân chết: Ngạt CO, sốc bỏng .…” Tại Bản Kết luận Giám định pháp y thương tích số 1790/GĐ -TTPY ngày 16/12/2022 của Trung tâm pháp y - Sở Y, kết luận về tỷ lệ tổn hại sức khoẻ của anh Nguyễn Mạnh D như sau:

“… Bỏng mặt trước vùng mặt, cổ diện tích khoảng 01%: 06%;

- Bỏng vùng thành ngực trái, bụng trái diện tích khoảng 01%: 02%;

- Sẹo bỏng lồi, lõm biến đổi sắc tố da gần toàn bộ tay phải và trái: 42%;

- Bỏng mặt trước gối trái và toàn bộ mặt ngoài cẳng chân trái 8%: 16%;

- Bỏng mặt trước trong gối phải, 1/3 dưới đùi trái, mặt sau cẳng chân phải diện tích 03%: 06%;

- Hạn chế vận động, động tác gấp khuỷu tay trái mức độ vừa: 26%;

- Cứng khớp bàn - ngón và các khớp liên đốt ngón I bàn tay trái: 22%;

- Cứng khớp bàn - ngón và các khớp liên đốt ngón II bàn tay trái: 17%;

- Cứng khớp bàn - ngón và các khớp liên đốt ngón III bàn tay trái: 13%;

- Cứng khớp bàn - ngón và các khớp liên đốt ngón IV bàn tay trái: 10%;

- Cứng khớp bàn - ngón và các khớp liên đốt ngón V bàn tay trái: 08%;

- Cứng các khớp liên đốt ngón II tay phải: 11%;

- Cơ chế hình thành thương tích: Do bỏng nhiệt gây nên…” Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 87% (Tám mươi bảy phần trăm), tính theo phương pháp cộng lùi.

Tại Bản Kết luận Giám định pháp y thương tích số 1440/GĐ-TTPY ngày 14/10/2022 của Trung tâm pháp y - Sở Y, kết luận về tỷ lệ tổn hại sức khoẻ của chị Bùi Thị Vân A1 như sau:

“… - Các vết sẹo bỏng mặt mu bàn tay hai bên và sẹo lồi mu tay phải 03%;

- Các vết sẹo vùng cẳng tay, khuỷu tay, 1/3 dưới cánh tay phải: 03%;

- Sẹo bỏng nông mặt trong khuỷu tay trái: 01%;

- Cơ chế hình thành thương tích: Do bỏng nhiệt gây nên…” Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 07% (Bảy phần trăm), tính theo phương pháp cộng lùi.

Tại Bản Kết luận Giám định pháp y thương tích số 1479/GĐ-TTPY ngày 14/10/2022 của Trung tâm pháp y - Sở Y, kết luận về tỷ lệ tổn hại sức khoẻ của cháu Trần Bùi Phương N như sau:

“… Sẹo bỏng toàn bộ mặt sau chân trái, vùng mông 2 bên, thắt lưng 2 bên khoảng 12% diện tích cơ thể: 12%;

- Sẹo bỏng vùng mạn sườn trái phải (bụng) khoảng 4% diện tích cơ thể 04%;

- Sẹo bỏng mu bàn tay trái khoảng 1% diện tích cơ thể, sẹo lồi, cứng, hồng, ngứa, ảnh hưởng thẩm mỹ 02%;

- Sẹo bỏng mặt mu bàn tay phải khoảng 1% diện tích cơ thể: 01%;

- Cơ chế hình thành thương tích: Do bỏng nhiệt gây nên;

Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 18% (Mười tám phần trăm), tính theo phương pháp cộng lùi …” Tại Bản Kết luận Giám định pháp y thương tích số 1480/GĐ-TTPY ngày 14/10/2022 của Trung tâm pháp y - Sở Y, kết luận về tỷ lệ tổn hại sức khoẻ của cháu Trần Bùi Phương T2 như sau:

“… Các sẹo bỏng vùng cánh - cẳng tay phải, cẳng tay trái: 04%; Cơ chế hình thành thương tích: Do bỏng nhiệt gây nên;

Tỷ lệ tổn hại sức khỏe là: 04% (Bốn phần trăm)…” Tại Bản Kết luận Giám định số 5124/KL-KTHS ngày 26/7/2022 của V2 - Bộ C1, kết luận: “… Chất lỏng bên trong 01 chai nhựa nhãn hiệu Lavie dung tích 1,5L là Xăng, thể tích: 200ml …”.

Tại bản Kết luận Giám định số 4765/ KL-KTHS ngày 05/9/2022 của V2 - Bộ C1, kết luận về nguyên nhân cháy, điểm xuất phát cháy như sau:

“… Điểm xuất phát cháy nằm ở khu vực cách tường phía Nam khoảng 3,3m, cách tường phía Đông khoảng 4,8m thuộc khu để xe bên trong nhà số D, ngõ F đường P, tổ D, phường P, quận N, TP Hà Nội. - Nguyên nhân cháy: Do tác động của con người sử dụng xăng gây ra vụ cháy nói trên...” Tại Bản Kết luận Giám định số 7517/ KL-KTHS ngày 05/9/2022 của Phòng K2 - Công an thành phố H, kết luận về số khung số máy, của các xe máy tạm giữ: “... 1. Xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, đeo biển kiểm soát 37B1-xxxx, số khung nguyên thủy RLHJC5236CY002826, số máy nguyên thủy JC52E-502930.

2. Xe mô tô nhãn hiệu Honda, đeo biển kiểm soát 90F9-xxxx, vị trí đóng số khung bị han gỉ, xác định số khung nguyên thủy của xe là RLHHC09003Y695003, số máy nguyên thủy HC09E-0694967.

3. Xe mô tô nhãn hiệu Honda Vision, đeo biển kiểm soát 17B3-175.78, số khung nguyên thủy RLHJF5803EY091441, số máy nguyên thủy JF58E-0091548.

4. Xe mô tô nhãn hiệu Honda không đeo biển kiểm soát, số khung nguyên thủy RLHJF633XLZ452369, số máy nguyên thủy JF94E-0020876.

5. Xe mô tô nhãn hiệu SYM-Atila Elizabet không đeo biển kiểm soát, vị trí đóng khung bị han gỉ, xác định số khung nguyên thủy của xe là RLGKA11BD BD004389, số máy nguyên thủy VMVUAB-D 004389.

6. Xe mô tô nhãn hiệu Honda, đeo biển kiểm soát 90B2-xxxx, số khung nguyên thủy RLHJF5818JY021839, số máy nguyên thủy JF66E-0907488.

7. Xe mô tô nhãn hiệu Honda WAVE đeo biển kiểm soát 19N1-xxxx, số khung nguyên thủy RLHHC12388Y399616, số máy nguyên thủy HC12E- 2138420.

8. Xe mô tô nhãn hiệu Honda, không đeo biển kiểm soát, vị trí đóng khung bị han gỉ, xác định số khung nguyên thủy của xe là RLHJC5247DY053147, số máy nguyên thủy JC52E-6080498.

9. Xe gắn máy nhãn hiệu CUB, đeo biển kiểm soát 29AA-xxxx, số khung nguyên thủy RN8DCB2UMDB 422589, số máy nguyên thủy VZS139FMB*422589*.

10. Xe máy điện nhãn hiệu Espero - Xmen đeo biển kiểm soát 90MĐ1- xxxx, số khung nguyên thủy RPEYBEMPEJA 002214, số máy nguyên thủy RPE60V1400W 002214.

11. Xe mô tô nhãn hiệu Honda SH Mode, đeo biển kiểm soát 37M1-xxxx, số khung nguyên thủy RLHJF5130GY023685, số máy nguyên thủy JF51E- 0565973.

12. Xe mô tô nhãn hiệu Honda WAVE, đeo biển kiểm soát 59D2-xxxx, số khung nguyên thủy RLHJA3125EY073506, số máy nguyên thủy JA3E-0444886 13. Xe mô tô nhãn hiệu Honda không đeo biển kiểm soát, số khung nguyên thủy RLHJF5839KY639724, số máy nguyên thủy JF86E-0360008.

14. Xe mô tô nhãn hiệu Honda, đeo biển kiểm soát 20B1-xxxx, số khung nguyên thủy RLHHC1216DY657852, số máy nguyên thủy HC12E-5657485.

15. Xe mô tô nhãn hiệu NIOSHIMA không đeo biển kiểm soát, số khung nguyên thủy RL9PCB8GNMAH00577, số máy nguyên thủy VLD138QMBMA 005527 (xe của ông Nghiêm Văn L xác định không bị thiệt hại).

Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 134/KLĐGTS ngày 30/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận N, kết luận về thiệt hại các xe máy bị cháy như sau:

“… - Tài sản bị hư hỏng hoàn toàn:

(1) 01 (một) xe máy Honda Wave, màu đỏ mận chín, BKS 90F9-xxxx, số máy 0694967, số khung 09003Y695003, đăng ký lần đầu năm 2006 (của anh Nguyễn Tiến T8). Giá trị tài sản là 2.400.000 đồng (Hai triệu bốn trăm ngàn đồng).

(2) 01 (một) xe máy Honda Vision, màu trắng, BKS 17B3-17578, số máy JF58E0091548, số khung 5803EY091441, đăng ký lần đầu năm 2015 (của chị Vũ Thị Lan A2). Giá trị tài sản là 9.900.000 đồng (Chín triệu chín trăm ngàn đồng).

(3) 01 (một) xe máy Honda Airblade, BKS 22B2-xxxxx màu đen vàng đồng, số máy JF94E0020876, số khung 633XLZ452369, đăng ký lần đầu năm 2020 (của anh Hoảng Công V1). Giá trị tài sản là 36.800.000 đồng (Ba mươi sáu triệu tám trăm ngàn đồng).

(4) 01 (một) xe máy Attila Elizabet, màu đỏ, số máy ABD-004389, số khung BD-004389, đăng ký lần đầu năm 2012(của chị Bùi Thị Vân A1). Giá trị tài sản là 6.000.000 đồng (Sáu triệu đồng).

(5) 01 (một) xe máy Honda Wave màu đỏ-đen, BKS 89C1-xxxx, số máy 6080498, số khung 053147, đăng ký lần đầu năm 2014(của chị Lại Thanh X). Giá trị tài sản là 4.800.000 đồng (Bốn triệu tám trăm ngàn đồng).

(6) 01 (một) xe máy Honda Vision màu vàng nâu, BKS 90B3-xxxx, đăng ký lần đầu năm 2020, số máy JF86E-036008, số khung 5839KY639724 (của chị Trương Ngọc H3). Giá trị tài sản là 26.400.000 đồng (Hai mươi sáu triệu bốn trăm ngàn đồng).

(7) 01 (một) xe máy Honda Wave, BKS 20B1-xxxx, số khung RLHHC1216DY657852, số máy HC12E5657485, đăng ký lần đầu năm 2015 (của anh Nguyễn Mạnh D). Giá trị tài sản là 7.200.000 đồng (bảy triệu hai trăm ngàn đồng).

(8) 01 (một) xe đạp màu xanh của hãng xe đạp Thống Nhất, mua mới năm 2021 (của chị Lương Thị K): Không đủ cơ sở định giá tài sản.

- Tài sản bị hư hỏng bộ phận:

(1) 01 (một) xe máy Honda Wave RSX, màu vàng-nâu-đen, BKS 37B1- xxxx, số máy C52E-5029830, số khung CY-002826, đăng ký lần đầu năm 2012 của chị Võ Thị Kiều T4, bị cháy phần nhựa đuôi sau xe: giá trị phần hư hỏng là 400.000 đồng (Bốn trăm ngàn đồng).

(2) 01 (một) xe máy Honda Vision màu đỏ-đen, BKS 90B2-xxxx, số máy JF66E0907488, số khung 5818JY021839, đăng lý lần đầu năm 2018 (của chị Lê Thị K1), bị cháy phần nhựa mặt đồng hồ, cháy phần vỏ xe bên trái, lắp sau và yên xe. Giá trị phần hư hỏng là 1.450.000 đồng (Một triệu, bốn trăm năm mươi ngàn đồng).

(3) 01 (một) xe máy HondaWave màu trắng-đen, BKS 19N1-xxxx, số máy 12E2138420, số khung 12388Y399616, đăng ký lần đầu năm 2009( của anh Cù Nhất Gia H4), bị cháy phần nhựa đuôi xe, yếm xe bên trái, yên xe và mặt đồng hồ: giá trị phần hư hỏng là 1.300.000 đồng (Một triệu, ba trăm ngàn đồng).

(4) 01 (một) xe máy Honda Cub màu hồng, BKS 29AA-xxxx (của anh Nguyễn Duy Đ), bị nhiệt tác động biến dạng phần mặt đồng hồ, phần yên xe bị cháy bong tróc, giá trị phần hư hỏng là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng).

(5) 01 (một) xe điện Xmen màu xanh, BKS: 90MĐ1-xxxx, đăng ký mới năm 2018 (của anh Trương Thanh T5), bị nhiệt tác động biến dạng phần nhựa đuôi xe: giá trị phần hư hỏng là 350.000 đồng (Ba trăm năm mươi ngàn đồng).

(6) 01 (một) xe máy Honda SH Mode, màu đỏ đen, BKS 37M1-xxxx, số máy JF51E0565973, số khung 5130GY023685, đăng ký lần đầu năm 2017 (của chị Lê Thị T6), bị nhiệt tác động biến dạng phần mặt đồng hồ, phần yên xe bị cháy bong tróc, phần ốp lọc gió bị cháy hỏng: giá trị phần hư hỏng là 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

(7) 01 (một) xe máy Honda Wave RSX màu đỏ đen, BKS 59D2-xxxx, số khung 3125EY073506, số máy JA31E0444886 (của chị Lê Thị Á1), bị nhiệt tác động biến dạng phần đuôi xe: giá trị phần hư hỏng là 400.000 đồng. Tổng số tiền bị thiệt hại đối với tài sản là các xe máy bị cháy nêu trên là 99.700.000 đồng (Chín chín triệu bảy trăm nghìn đồng)…” Tại Bản Kết luận định giá tài sản số 133/KLĐGTS ngày 21/03/ 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND quận N kết luận về tài sản bị thiệt hại của nhà ông Nghiêm Văn L như sau:

“…Kết quả định giá tài sản:

- Hệ thống điều hòa bị hư hỏng: chập mạch, ám khói đen, số lượng 21 bộ: Không đủ cơ sở định giá tài sản.

- Hệ thống điện tại ngôi nhà bị hư hỏng: Không đủ cơ sở định giá tài sản.

- 04 (Bốn) quạt trần ở tầng 1 bị cháy, chập điện: Không đủ cơ sở định giá tài sản.

- Tivi Samsung bị ám khói, hỏng mạch tại tầng 01: Không đủ cơ sở định giá tài sản.

- T9, trần toàn bộ nhà, các phòng bị bong tróc, ám khói. Diện tích tầng 1 bị bong tróc: 450m2. Diện tích các tầng nhà bị ám khói: 2.550m2. Trần thạch cao tầng 1 bị hỏng diện tích: 150m2. Tổng giá trị tài sản bị hủy hoại là: 304.900.000 đồng …” Đối với những người bị hại trong vụ án gồm: Ông Nghiêm Văn L, chị Nghiêm Thị L2, chị Nghiêm Thị Thùy L1, anh Nghiêm Thành T3, chị Nguyễn Thị C là những người bị thương nhẹ trong vụ cháy và có đơn xin từ chối giám định thương tích, đồng thời không yêu cầu H bồi thường về tổn hại sức khoẻ.

Ngày 06/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận N ra Quyết định xử lý vật chứng số 86/QĐ-ĐTHS và tiến hành trao trả toàn bộ những chiếc xe máy bị cháy cho chủ sở hữu của xe máy, cụ thể như sau:

1. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ biển kiểm soát 90F9- xxxx đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Tiến T8. 2. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda vision màu trắng, biển kiểm soát 17.

B3-175.78 đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là chị Vũ Thị Lan A2. 3. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát 22B2-xxxxx đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là anh Hoàng Công V. 4. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Atilla Elizabet, biển kiểm soát 37B1-xxxx đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là chị Bùi Thị Vân A1. 5. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ đen, biển kiểm soát 89C1-xxxx đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là chị Lại Thị Thanh X. 6. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Vision biển kiểm soát 90B3- xxxx đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là chị Trương Ngọc H3 7. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, biển kiểm soát 20B1-xxxx đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Mạnh D. 8. Trao trả 01 xe đạp trẻ em màu xanh đã bị cháy hoàn toàn cho chủ sở hữu là chị Lương Thị Kiều .1 9. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX, biển kiểm soát 37B1- xxxx đã bị cháy một phần cho chủ sở hữu là chị Võ Thị Kiều T4. 10. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng đen, biển kiểm soát 19N1-xxxx đã bị cháy hoàn toàn lớp vỏ nhựa bên ngoài cho chủ sở hữu là anh Cù Nhất Gia H4. 12. Trao trả 01 xe Honda Cub màu hồng, biển kiểm soát 29AA-xxxx đã bị cháy hết lớp vỏ nhựa bên ngoài cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Duy Đ. 13. Trao trả 01 xe máy điện nhãn hiệu Espero - Xmen, màu xanh, biển kiểm soát 90MĐ1-xxxx đã bị cháy sun nhẹ phần nhựa đầu xe cho chủ sở hữu là anh Trương Thanh T5. 14. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH Mode màu đỏ đen, biển kiểm soát 37M1-xxxx đã bị cháy một phần lớp vỏ nhựa bên ngoài xe cho chủ sở hữu là chị Lê Thị T6. 15. Trao trả 01 xe máy nhãn hiệu Honda Wave RSX màu đỏ, biển kiểm soát 59D2-xxxx đã bị cháy một phần nhựa đuôi xe cho chủ sở hữu là chị Lê Thị Ánh . - Về trách nhiệm dân sự: Đại diện hợp pháp của những người bị hại, những người bị hại trong vụ án có yêu cầu, đề nghị, cụ thể như sau:

+ Ông Nguyễn Minh Đ1 (bố chị Nguyễn Thị Mai Á) yêu cầu bồi thường chi phí mai táng là 80.000.000 đồng, các vấn đề dân sự khác đề nghị bồi thường theo quy định của pháp luật.

+ Anh Nguyễn Mạnh D yêu cầu bồi thường số tiền 307.000.000 đồng.

+ Chị Bùi Thị Vân A1 yêu cầu Trần Thị Thanh H bồi thường về chi phí khám điều trị, tổn thất tinh thần của ba người chị Vân A1 yêu cầu bị can bồi thường số tiền 126.000.000 đồng.

+ Anh Hoàng Công V yêu cầu bồi thường số tiền 36.800.000 đồng.

+ Chị Vũ Thị Lan A2 yêu cầu bồi thường số tiền 9.900.000 đồng.

+ Anh Nguyễn Tiến T8 yêu cầu bồi thường số tiền 2.400.000 đồng.

- Chị Lê Thị K1 yêu cầu bồi thường số tiền 1.450.000 đồng.

+ Chị Lê Thị T6 yêu cầu bồi thường số tiền 10.000.000 đồng.

+ Anh Nguyễn Duy Đ yêu cầu bồi thường số tiền 300.000 đồng.

+ Ông Nghiêm Văn L yêu cầu bồi thường số tiền 500.000.000 đồng.

+ Những người bị hại gồm: Cù Nhất Gia H4, Trương Thanh T5, Lê Thị Ả, Lại Thị Thanh X, Võ Thị Kiều T4, Trương Ngọc H3, Nguyễn Thị C và Lương Thị K không yêu cầu bồi thường, đề nghị xử lý Trần Thị Thanh H đúng quy định của pháp luật.

- Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 386/2023/HS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Trần Thị Thanh H (tức Hải A) phạm tội “Giết người” và tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Áp dụng điểm a, b, e, l, n khoản 1 Điều 123; khoản 3 Điều 178; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 40; Điều 55 Bộ luật Hình sự; Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự; xử phạt: Trần Thị Thanh H (tức Hải A) tử hình về tội “Giết người”, 07 (bảy) năm tù về tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo phải chấp hành là tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm bồi thường dân sự, nghĩa vụ thi hành án dân sự, xử lý vật chứng, án phí, thông báo quyền kháng cáo cho những người tham gia tố tụng và quyền làm đơn xin ân giảm án tử hình của bị cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 09/9/2023, bị cáo Trần Thị Thanh H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Bị cáo Trần Thị Thanh H giữ nguyên đơn kháng cáo và trình bày: Bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản án sơ thẩm xử về tội “Giết người” và tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” là đúng. Tuy nhiên, mục đích của bị cáo không phải là giết người mà bị cáo đốt xe anh V vì bực tức, việc bị cáo đốt xe dẫn đến làm chết người và làm cho người khác bị thương tích là ngoài ý muốn của bị cáo, trong thời gian tạm giam gia đình không có liên hệ gì với bị cáo nên bị cáo không biết có bồi thường được cho ai không, gia đình bị cáo có ông có công với cách mạng nhưng bị cáo đang bị tạm giam nên không thể sao chụp để nộp tài liệu được, mẹ bị cáo bị bệnh hiểm nghèo mới chết, bị cáo có con sinh năm 2017 còn nhỏ, điều kiện hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, cuộc sống vợ chồng cũng không hạnh phúc, bị cáo đã rất ân hận về hành vi phạm tội của mình nên xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo cơ hội được sống.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Tại cấp phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn nhận tội và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; gia đình bị cáo có ông nội có công với cách mạng nhưng do bị cáo đang bị tạm giam nên không thể có tài liệu để nộp được, mặt khác mục đích của bị cáo đốt xe máy là vì bực tức đối với anh V, không có mục đích giết người, hậu quả của vụ án xẩy ra là ngoài mong muốn của bị cáo, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, trong thời gian tạm giam không hề có sự quan tâm của gia đình, cuộc sống vợ chồng bị cáo không được hạnh phúc. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và áp dụng chính sách nhận đạo của pháp luật để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt mức hình phạt thấp hơn để bị cáo có cơ hội được sống.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu quan điểm:

+ Về tố tụng: Những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thanh H là trong thời hạn và đúng quy định pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

+ Về nội dung: Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn nhận tội và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nhưng xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo và hậu quả xẩy ra là đặc biệt nghiêm trọng, mức hình bản án sơ thẩm đã xét xử là phù hợp với tính chất và hậu quả của tội phạm mà bị cáo gây ra. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thanh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm đã thực hiện đều hợp pháp.

[1.2] Kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thanh H là trong hạn luật định nên được chấp nhận hợp lệ để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về tội danh: Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Trần Thị Thanh H đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về 02 tội “Giết người” và tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan.

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu, lời khai người bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và vật chứng thu giữ của vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Trần Thị Thanh H mặc dù đã có chồng nhưng vẫn quan hệ tình cảm với anh Chẩu Việt H2. Khoảng tháng 02/2022, anh H2 chủ động chấm dứt quan hệ với H và chuyển đến phòng số 602 (tầng F) số D, ngõ F, đường P, phường P, quận N, thành phố Hà Nội (chủ nhà trọ là ông Nghiêm Văn L) ở cùng anh họ là anh Hoàng Công V để trốn tránh và không phải gặp H. Vì nghi ngờ anh V xúi giục, kích động anh H2 chấm dứt quan hệ với mình nên H nảy sinh ý định mua xăng đốt xe máy của anh V để trả thù. Khoảng 18 giờ ngày 31/3/2022, H mang theo 01 chai xăng có thể tích khoảng 1,5 lít cùng 01 bao dao diêm đi đến nhà trọ của anh V; khi vào trong nhà trọ, thấy chiếc xe máy biển kiểm soát 22B2- xxxxx của anh V để ở tầng 01, H đổ khoảng hơn 01 lít xăng vào xe máy của anh V rồi lấy diêm châm lửa đốt. Hậu quả vụ cháy đã làm 10 người thuê trọ gồm chị Nguyễn Thị Mai Á (là người đang mang thai) bị tử vong, anh Nguyễn Mạnh D bị tổn hại 87% sức khoẻ, cháu Trần Bùi Phương N bị tổn hại 18% sức khoẻ, cháu Trần Bùi Phương T2 bị tổn hại 04% sức khoẻ, chị Bùi Thị Vân Vân A1 bị tổn hại 07% sức khoẻ và một số người khác bị bỏng nhẹ không có yêu cầu giám định, không có yêu cầu bồi thường; đồng thời làm hư hỏng nhiều tài sản của những người thuê trọ và hư hỏng tài sản của gia đình chủ nhà trọ với tổng số tiền thiệt hại được định giá là 404.600.000 đồng. Do đó, bản án sơ thẩm xét xử bị cáo Trần Thanh H về tội “Giết người” và tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” theo điểm a, b, e, l, n khoản 1 Điều 123 và khoản 3 Điều 178 Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật.

[2.2] Xét kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thanh H, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi của phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, phạm nhiều tội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe con người và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng rất xấu và làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội nên cần xử phạt nghiêm minh để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình và thừa nhận bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về 02 tội “Giết người” và tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, xét thấy bị cáo cùng một lúc phạm nhiều tội, hành vi phạm tội “Giết người” của bị cáo và hậu quả của tội phạm xẩy ra là đặc biệt nghiêm trọng, không những gây mất trật tự trị an – an toàn xã hội mà còn gây mất mát đau thương cho gia đình bị hại bị chết và những người bị thương tích; bị cáo phạm tội có nhiều tình tiết định khung hình phạt là giết nhiều người, giết người dưới 16 tuổi, giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người, có tính chất côn đồ, phạm tội đối với phụ nữ có thai quy định tại các điểm a, b, e, l, n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự và có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Xét thấy mức hình phạt bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo về các tội “Giết người” và tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản” là phù hợp với tính chất hành vi phạm tội, hậu quả của tội phạm và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và xét thấy hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện bị cáo đã mất hết nhân tính con người, không còn có khả năng cải tạo nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo.

Tại phiên toà bị cáo và Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày gia đình bị cáo có ông nội là người có công với cách mạng nhưng không có tài liệu chứng minh nên không có căn cứ áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo.

[3] Với các nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thanh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội.

[4] Về án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Trần Thị Thanh H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Thị Thanh H; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 386/2023/HS-ST ngày 31 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội như sau:

Áp dụng điểm a, b, e, l, n khoản 1 Điều 123; khoản 3 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm i khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 40; Điều 55 Bộ luật Hình sự; Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự; xử phạt Trần Thị Thanh H (tức Hải A): Tử hình về tội “Giết người” và 07 (bảy) năm tù về tội “Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản”. Tổng hợp hình phạt của hai tội, buộc bị cáo Trần Thị Thanh H phải chấp hành hình phạt chung là: Tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Bị cáo Trần Thị Thanh H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

5. Trong thời hạn 07 (bảy) ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo Trần Thị Thanh H có quyền làm đơn gửi đến Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam để xin ân giảm án tử hình theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 168/2024/HS-PT

Số hiệu:168/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;