Bản án về tội giết người số 155/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 155/2023/HS-PT NGÀY 25/05/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 25 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu trung tâm trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng và điểm cầu thành phần trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng mở phiên tòa trực tuyến xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 62/2023/TLPT-HS ngày 02 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Phạm Văn T về tội “Giết người” do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2022/HS-ST ngày 22 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo: Phm Văn T, sinh năm 1990, tại tỉnh Đồng Tháp; nơi cư trú: tỉnh Bình Phước; chỗ ở hiện nay: tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: làm nông; dân tộc: Kinh; trình độ văn hóa: 5/12; con ông Phạm Văn T, sinh năm 1959 và bà Dương Thị Ngọc H, sinh năm 1961; bị cáo có vợ là Võ Thị Bích G, sinh năm 1991 và 02 con, con lớn sinh năm 2010, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: không;

Nhân thân: năm 2020, Phạm Văn T bị xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 463/QĐ-XPVPHC của Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 25/7/2022 đến nay, có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T:

+ Ông Nguyễn Văn N - Luật sư thuộc Công ty luật TNHH MTV D, Đoàn Luật sư tỉnh Đắk Lắk (Bào chữa theo chỉ định); địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk. Có mặt

+ Ông Mai Quốc A - Luật sư thuộc Văn phòng luật sư A Đắk Lắk, Đoàn luật sư tỉnh Đắk Lắk (Bào chữa theo yêu cầu); địa chỉ: tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 ngày 12/3/2022, sau khi đi dự đám cưới về Nguyễn Văn H cùng với Nguyễn Văn Đ; Phan Văn L, Nguyễn Văn T; Nguyễn Thành T tiếp tục uống bia trên sập gỗ trước cửa nhà bà Nguyễn Thị T tại Tiểu khu 252, xã E, huyện E. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày, anh T gọi điện thoại cho bạn là anh Nguyễn Văn N rủ đến nhà bà T nhậu, anh N điều khiển xe máy chở Phạm Văn T đến. Trong quá trình ngồi ăn nhậu, T có mời H uống riêng một ly bia nhưng H uống không hết ly thì xảy ra tranh cãi rồi T cầm ly bia ném về phía H nhưng không trúng. Lúc này, T và H cãi nhau, thách thức đánh tay đôi thì được mọi người can ngăn. Cả hai đều bỏ đi nơi khác, khi về đến nhà do bực tức nên Nguyễn Văn H mang theo 01 tuýp sắt, dài 76,5cm, đường kính 02cm, quay lại để đánh T. Nhìn thấy H mang theo tuýp sắt, ông Nguyễn Văn R (là bố của H) đi xe máy theo sau để xem có chuyện gì. H chạy xe máy đến gần chỗ T đang đứng rồi xuống xe, trên tay cầm theo tuýp sắt đi bộ lại gần và thách thức đánh nhau nên T bỏ chạy vào sân nhà của anh Trần Chí T1. H chạy theo vào sân thì T chạy vào bên trong nhà anh T1 để trốn. Sau đó, H quay ra đi lên phía đường đứng thì T đi vòng ra phía sau, bên trái căn nhà rồi đi lên khu vực trước sân. Thấy vậy, H cầm tuýp sắt đi vào trong sân về phía T nên T nhặt 01 cây gỗ dài khoảng 1,5m, loại gỗ xẻ 04 cạnh vuông. Tại đây, H đứng đối diện T, tay cầm tuýp sắt chỉ trỏ, thách thức thì bị trượt chân, ngã sấp về phía trước, T liền cầm cây gỗ đánh 01 cái trúng vào vùng vai trái làm H nằm gục xuống đất. T tiếp tục cầm gậy đánh 01 cái trúng vào vùng lưng, vai của H thì cây gỗ gãy làm đôi, một phần văng ra sân, phần còn lại T vẫn cầm trên tay. Lúc này, ông L chạy tới can ngăn, đẩy T ra. Còn ông Nguyễn Văn R thấy con mình bị đánh nên chạy từ ngoài đường vào sân, đứng đối diện T và thách thức thì T liền giơ gậy gỗ lên cao, đánh theo hướng từ phải qua trái 01 cái trúng vào vùng thái dương trái làm ông R ngã gục xuống đất theo tư thế nằm nghiêng bên trái. T tiếp tục cầm gậy gỗ đánh tiếp một cái trúng vào vùng mặt bên phải của ông R thì ông L liền can ngăn, kéo T đi ra đường, T vứt cây gậy gỗ xuống sân nhà anh T1. Sau đó, ông L lấy xe máy chở T đi về nhà còn ông R và H được mọi người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện.

Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 402/TgT-TTPY ngày 26/4/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Văn R hiện tại là 15%; vật tác động: Vật tày Tại Bản kết luận giám định Pháp y về thương tích số 833/TgT-TTPY ngày 19/9/2022 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận thương tích của Nguyễn Văn H hiện tại là 02%; vật tác động: Vật tày Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2022/HS-ST ngày 22/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Giết người”.

Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 54; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 25/7/2022.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Trong thời hạn luật định, ngày 26/12/2022 bị cáo Phạm Văn T có Đơn kháng cáo, với nội dung: xin giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Phạm Văn T vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với Bị cáo;

Đại diện Viện kiểm sát nhân cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư - Nguyễn Văn Nghị bào chữa cho bị cáo Phạm Văn T thống nhất về tội danh đối với bị cáo. Tuy nhiên, hành vi phạm tội của bị cáo là có một phần lỗi của bị hại do Nguyễn Văn H dùng hung khí đánh bị cáo trước, ông Nguyễn Văn R là bố của H lại thách thức, chửi bởi bị cáo dẫn đến bị cáo bức xúc đã dùng gậy đánh ông R. Hành vi của bị cáo không có tính chất côn đồ theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, bồi thường thiệt hại cho người bị hại, bị cáo gia đình khó khăn, các con còn nhỏ, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Phạm Văn T 11 (Mười một) năm tù là nặng. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho Bị cáo.

Sau khi nghe: bị cáo trình bầy nội dung kháng cáo; quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc giải quyết vụ án; căn cứ bào chữa của Luật sư bào chữa cho bị cáo và tranh luận tại phiên tòa. Sau khi thảo luận và nghị án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án; căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, kết quả tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Phiên tòa lần 2, người bào chữa theo yêu cầu cho bị cáo Phạm Văn T là Luật sư - Mai Quốc A vắng mặt. Bị cáo và đại diện viện kiểm sát đề nghị tiếp tục xét xử vụ án; Hội đồng xét xử căn cứ điểm a khoản 1 Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự quyết định xét xử vụ án.

[2] Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm: bị cáo Phạm Văn T khai nhận tội, đối chiếu thấy phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: ngày 12/3/2022, tại nhà của ông Trần Chí T1 ở Tiểu khu 252, xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk mặc dù không có mâu thuẫn với ông Nguyễn Văn R nhưng bị cáo T đã dùng gậy gỗ đánh 01 cái trúng vào vùng thái dương trái và 01 cái vào vùng mặt của ông R. Hậu quả, ông R bị nứt sọ thái dương trái và vết thương ở vùng má phải, tổn thương 15% sức khỏe. Bị cáo là người đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, biết việc dùng gậy gỗ đánh liên tiếp nhiều cái vào vùng đầu, mặt là những vị trí trọng yếu trên cơ thể của người bị hại có khả năng dẫn đến hậu quả chết người nhưng bị cáo vẫn thực hiện. Người bị hại không chết là do được can ngăn và cấp cứu kịp thời.

Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tính mạng của người khác, thể hiện việc coi thường pháp luật, không chỉ gây thiệt hại về sức khỏe cho bị hại mà còn làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình trật tự, trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2022/HS-ST ngày 22/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Giết người”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm n, khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù của bị cáo Phạm Văn T thì thấy: khi quyết định hình phạt đối với bị cáo, bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra; xem xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

- Về nhân thân: năm 2020, Phạm Văn T bị Ủy ban nhân dân xã E, huyện E, tỉnh Đắk Lắk xử phạt 2.000.000 đồng về hành vi xâm hại đến sức khỏe người khác, theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 463/QĐ-XPVPHC. T chấp hành xong hình phạt tiền (ngày 01/12/2020) tính đến ngày 12/3/2022 T phạm tội mới đã quá thời hạn 1 năm nên được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại khoản 1 Điều 7 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Về tình tiết tăng nặng: bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về Tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình, sau khi phạm tội đã tác động gia đình bồi thường khắc phục toàn bộ thiệt hại cho người bị hại và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bản án sơ thẩm đã áp dụng quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và áp dụng thêm quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự để xét xử đối với bị cáo là có căn cứ. Mặt khác, người bị hại không chết mà chỉ bị tổn thương 15% sức khỏe, nên thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt theo quy định Điều 15 và khoản 3 Điều 57 Bộ luật hình sự. Do đó, Bản án sơ thẩm quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo đã phạm (quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự 2015 có mức hình phạt tù “từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình” ) và xử phạt bị cáo Phạm Văn T 11 năm tù về tội “Giết người” là tương xứng với tính chất mức độ và hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có tình tiết giảm nhẹ khác. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là đúng căn cứ pháp luật nên không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

[4] Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Phạm Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

[5] Những phần quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên không xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Văn T và giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 136/2022/HS-ST ngày 22/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk.

- Áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 54; khoản 3 Điều 57 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 11 (Mười một) năm tù về tội “Giết người”.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 25/7/2022.

2. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

99
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội giết người số 155/2023/HS-PT

Số hiệu:155/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;